Đề tài nghiên cứu của Bộ Thương mại (2002) về việc áp dụng thuế CBPG

22/01/2007 12:00 - 1698 lượt xem

Chủ nhiệm đề tài: Th.S Nguyễn Thanh Hưng

Giới thiệu

Từ khi thực hiện chính sách mở cửa vào năm 1986 đến nay nhiều thay đổi to lớn về chính sách thương mại đã diễn ra. Nhiều văn bản pháp lý quan trọng liên quan tới thương mại đã được ban hành như Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Thương mại, Nghị định số 57/NĐ-CP, Quyết định số 46/QĐ-TTg, v.v. Kinh tế Việt Nam phát triển khá nhanh và ổn định. Đồng thời chính sách thương mại đã khá tự do, nhiều hàng rào phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu được giảm đáng kể.

 

Về quan hệ kinh tế đối ngoại, từ năm 1995 đến nay Việt Nam đã tích cực tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) năm 1995, Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái bình dương (APEC) năm 1998. Tháng 7/2000, Hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa kỳ đã được ký kết và bắt đầu có hiệu lực từ 11/12/2001. Hiện nay Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và đang tiến hành xây dựng chính sách thương mại phù hợp với qui định của WTO. Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Trong khi một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có uy tín trên thị trường thế giới, đã xuất hiện một số trường hợp hàng xuất khẩu của ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá.

 

Ngoài việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tự do hóa thương mại cũng có thể dẫn đến một số tác động bất lợi. Vài năm trước đây nếu hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá khó gây ra thiệt hại cho các nhà sản xuất mặt hàng cùng loại trong nước thì trong những năm tới lại có thể gây ra những tổn thất lớn do khi đó hàng rào bảo hộ bằng các biện pháp hạn chế định lượng có thể đã biến mất, đồng thời thuế suất thuế nhập khẩu bị giảm xuống. Vì vậy, đã đến lúc chúng ta cần phải nghiên cứu và sớm áp dụng các công cụ bảo hộ mới phù hợp với các qui định của WTO, trong đó có thuế chống bán phá giá.

 

Thuế chống bán phá giá được áp dụng lần đầu tiên ở Canada vào năm 1904 và ngày càng được phổ biến rộng rãi không những ở các nước phát triển như Mỹ, Canada, EU, úc mà cả các nước đang phát triển như Brazil, Arhentina, Mexico, ấn độ, Malaysia. Đây là một công cụ bảo vệ hiệu quả hàng hóa sản xuất trong nước khi phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu bị bán phá giá.

Mặc dù Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam, Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/4/2001 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001 nhưng cho đến nay Việt Nam chưa áp dụng trường hợp thuế chống bán phá giá nào do chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể việc điều tra phá giá và áp dụng thuế chống bán phá giá.

 

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ban soạn thảo Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá đã được thành lập ngày 2/2/2002. Pháp lệnh này đã được đăng ký vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội vào năm 2003. Để đáp ứng nhu cầu tăng cường bảo hộ sản xuất trong nước và hỗ trợ việc xây dựng Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá, đề tài. Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. được triển khai nghiên cứu trong vòng một năm với các nội dung chính như sau:

 

Chương I giới thiệu khái niệm bán phá giá và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá, vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất, phân tích lợi ích chung của toàn xã hội khi áp dụng thuế chống bán phá giá. Một kết luận đáng lưu ý của Chương này là thuế chống bán phá giá, mặc dù có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước nhưng lại có thể gây thiệt hại cho lợi ích tổng thể toàn xã hội trong trường hợp lợi ích đem lại cho nhà sản xuất không đủ bù đắp cho thiệt hại của người tiêu dùng mặt hàng bị đánh thuế chống bán phá giá. Chương I cũng giới thiệu các điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế và thủ tục điều tra phá giá theo qui định của Hiệp định Chống bán phá giá của WTO. Nguyên tắc đánh thuế chống bán phá giá rất đơn giản: giá trị thuế không được vượt quá mức chênh lệch giữa giá trị thông thường (giá bán sản phẩm tương tự ở thị trường nước xuất khẩu) và giá xuất khẩu. Nhưng trên thực tế để so sánh được hai giá trị này một cách chính xác và công bằng thì cần phải qui định thủ tục điều tra và cách tính rất chi tiết. Ngoài ra để áp dụng được thuế chống bán phá giá cần phải có qui định chặt chẽ về cách đánh thuế, truy thu thuế, hoàn thuế và khiếu nại. Hiệp định Chống bán phá giá của WTO đưa ra qui định về tất cả các thủ tục đó và tất cả các nước thành viên WTO đều phải ban hành luật quốc gia về chống bán phá giá phù hợp với Hiệp định này.

 

Chương II giới thiệu tổng quan về tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới. Mặc dù thuế chống bán phá giá bắt đầu được áp dụng ở các nước phát triển như Hoa kỳ, Canada nhưng ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển như Braxin, ấn độ, Malaysia, v.v. Thực tiễn áp dụng loại thuế này ở một số nước thành viên WTO như Hoa kỳ, Canada, EU và Thái lan cho thấy nguyên tắc điều tra phá giá của các nước này về cơ bản đều phù hợp với qui định của WTO. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy điều tra phá giá và cách thu thuế chống bán phá giá ở các nước này có một số khác biệt. Việc nghiên cứu những khác biệt này rất có ích cho việc triển khai ápdụng thuế chống bán phá giá ở nước ta.

 

Chương III phân tích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá của Việt Nam. Việc mở cửa thị trường dẫn đến nhu cầu bảo hộ sản xuất trong nước bằng các công cụ mới ngày càng tăng, đặc biệt là công cụ thuế chống bán phá giá. Nhưng áp dụng thuế chống bán phá giá là một vấn đề rất phức tạp. Để có thể triển khai áp dụng được thuế chống bán phá giá trước hết cần phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật về loại thuế này, sau đó cần tổ chức các cơ quan thực thi chống phá giá và đào tạo nguồn nhân lực. Sau khi nghiên cứu cơ sở khoa học và một số mô hình áp dụng thuế chống bán phá giá điển hình ở một số nước trên thế giới, căn cứ vào điều kiện thực tế của Việt Nam, đề tài đưa ra kiến nghị về việc áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam, bao gồm những vấn đề sau:

 
- Ban hành Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá;

- Thành lập ủy ban liên Bộ để thực thi chống bán phá giá;

- Nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp.

 

Phụ lục 1 giới thiệu về các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã và đang bị điều tra/áp dụng thuế chống bán phá giá trên thị trường quốc tế. Phụ lục 2 giới thiệu các mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam có khả năng bị bán phá giá và cuối cùng Phụ lục 3 giới thiệu toàn văn Hiệp định Chống bán phá giá của WTO.

 
Trong một năm qua nhóm nghiên cứu đề tài đã nỗ lực làm việc để có được kết quả nghiên cứu này và hy vọng đề tài sẽ góp phần hỗ trợ cho việc xây dựng Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá ở Việt Nam. Chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến các đồng nghiệp ở Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan và các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
 
Quảng cáo sản phẩm