Sẵn sàng ‘đường băng’ giao thương EU hậu Covid-19

15/05/2020 12:00 - 282 lượt xem

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) sắp chính thức có hiệu lực trong tháng 5 này đối với cả EU và Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt cần ở tư thế sẵn sàng “đường băng” giao thương với EU, đẩy mạnh xuất khẩu ngay khi kết thúc dịch Covid, nhất là tính đến việc tận dụng EVFTA.


Mới đây, Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho biết EVFTA chỉ cần được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn (dự kiến sẽ họp về việc phê chuẩn EVFTA vào ngày 20/5/2020 - ngày đầu tiên của Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV) và hai bên hoàn tất thủ tục thông báo theo quy định của Hiệp định là sẽ chính thức có hiệu lực đối với cả EU và Việt Nam.


Cơ hội đa dạng hoá thị trường


Quan sát những diễn biến kinh tế gần đây, nhóm chuyên gia của Đại học RMIT Việt Nam nhận định đây là lúc Việt Nam cần đa dạng hóa các đối tác thương mại một cách mạnh mẽ hơn nhằm giảm sự phụ thuộc vào một hoặc hai thị trường trọng điểm cả về nhập khẩu và xuất khẩu (XK). Và EVFTA là một yếu tố cần thiết trên hành trình đó.


Nhất là khi chuỗi cung ứng toàn cầu đã và đang bị tác động dữ dội do sụt giảm hoạt động sản xuất và thương mại vì đại dịch Covid-19.


Đối với một nền kinh tế mở và tỉ trọng xuất nhập khẩu chiếm tỉ lệ rất cao trong GDP như Việt Nam, các vấn đề liên quan đến những biến động như vậy có thể leo thang nhanh chóng, đặc biệt là khi hoạt động xuất nhập khẩu có mối liên kết quan trọng nhưng thiếu bền vững với thị trường lớn như Trung Quốc.


Điển hình như việc sụt giảm 22-24% kim ngạch XK nông sản của Việt Nam trong những tháng trước khi dịch Covid-19 bùng phát dữ dội ở Trung Quốc.


Hoặc như với thị trường Mỹ, theo Ts. Nguyễn Quang Trung, việc xuất siêu cao và tăng liên tục sang thị trường này cũng có thể không bền vững. Nếu có thay đổi chính sách từ chính quyền của Tổng thống Trump sẽ khiến ngành XK của Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn, đặc biệt khi các doanh nghiệp (DN) địa phương chưa làm chủ được các khâu chính trong chuỗi giá trị toàn cầu. 


Trong những năm gần đây, hoạt động ngoại thương của Việt Nam liên tục ghi nhận thâm hụt thương mại với Trung Quốc. Trong khi đó thặng dư thương mại với Hoa Kỳ ngày càng tăng.


“Xây dựng được cán cân thương mại cân bằng về mặt tổng thể sẽ giúp ổn định nền kinh tế hơn và tăng khả năng chống lại các cú sốc ngoại vi như đại dịch Covid-19”, Ts.Trung nhận định.


Chưa rõ khi nào cuộc khủng hoảng Covid-19 hiện tại trên toàn cầu sẽ kết thúc và khi nào các tác động gián tiếp lên nền kinh tế sẽ được khắc phục. Vì vậy, giới chuyên gia nhấn mạnh yêu cầu cấp bách đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay là phải nhanh chóng nắm lấy và hành động để đa dạng hóa thị trường và qua đó giảm thiểu các rủi ro phải đối mặt.


Trong tương quan này, Hiệp định EVFTA có thể mang ý nghĩa sống còn, bên cạnh các thỏa thuận quốc tế khác như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).


Lợi ích dài hạn


Theo Ts. John Walsh, EVFTA là thỏa thuận ổn định nhất đối với Việt Nam vì đưa ra các quy tắc chặt chẽ hơn, yêu cầu tất cả các đối tác phải tuân thủ.


“Điều đó có nghĩa sẽ có ít cơ hội hơn để các nước theo đuổi chính sách thu về lợi ích ngắn hạn, dù có chủ ý hay không”, Ts. Walsh nói.


Các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới cũng sẽ mang lại cho Việt Nam cơ hội nâng cao vị thế trên bản đồ thương mại toàn cầu, vượt hẳn khỏi các lợi thế như chi phí lao động thấp hay nguồn lực nông nghiệp dồi dào, để hướng tới việc chuyển giao công nghệ và tận dụng kỹ năng của lực lượng lao động trẻ.


Việt Nam là quốc gia ASEAN thứ hai ký hiệp định thương mại tự do với EU. Song, “sự quyết liệt như vậy cần đi kèm với những hành động nhanh chóng, quyết đoán và đáng tin cậy để giúp nền kinh tế phát triển hơn nữa”, Ts Trung chia sẻ.


Sau bảy năm kể từ khi FTA có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế quan đối với hơn 99% số dòng thuế, tương đương hơn 99% kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU.


Theo Ts. Walsh, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam - đặc biệt là các sản phẩm thuộc ngành dệt may, giày dép và nông sản - sẽ được “chắp thêm cánh” khi ngành năng lượng chuyển đổi để đáp ứng các tiêu chuẩn về lượng khí thải carbon thấp.


Hơn nữa, Ts. Walsh cho rằng khi nền kinh tế nói chung và người tiêu dùng Việt Nam nói riêng đã quen với hàng hoá nhập khẩu từ EU trong các lĩnh vực mới, thì ngành bán lẻ và phân phối sẽ được tiếp sức để sẵn sàng đón nhận các sản phẩm khác trong những danh mục tương tự đến từ khắp nơi trên thế giới.


Các DN Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ các sản phẩm ưu việt với giá thành rẻ từ EU và có thể sử dụng chúng trong các quy trình sản xuất của mình, từ đó cải thiện năng suất và lợi nhuận của hàng XK Việt Nam.


“Khi tính cạnh tranh tăng lên, Việt Nam sẽ có thêm cơ sở để thúc đẩy thương mại, thông qua việc hài hòa hóa các điều kiện pháp lý, quy tắc xuất xứ, các quy định quản lý và hành chính hải quan, cũng như công nhận các tiêu chuẩn và quy định phù hợp của nhau”, Ts. Trung cho biết.


Tuy nhiên, theo nhóm chuyên gia RMIT, Việt Nam cũng phải đối mặt những thách thức đến từ yêu cầu của các thỏa thuận mới. Khu vực tư nhân cũng sẽ phải chuẩn bị đáp ứng các thách thức nâng cấp chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị, nhằm đảm bảo tất cả các mắt xích trong chuỗi tuân thủ theo các thông lệ quốc tế tốt nhất.


Nguồn: Doanh nghiệp Hội nhập

Quảng cáo sản phẩm