Thủy sản ứng phó với rào cản thị trường

25/08/2009 12:00 - 978 lượt xem

Có thể nói năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 là khoảng thời gian hàng thủy sản Việt Nam phải đối mặt với nhiều rào cản nhất, cả về kỹ thuật lẫn phi kỹ thuật. Vậy Việt Nam đã sẵn sàng ứng phó chưa?


Kể từ sau khi Mỹ áp thuế chống bán phá giá cao nhất đối với các sản phẩm cá tra, cá ba sa có nguồn gốc từ Việt Nam vào năm 2002, có thể nói năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 là khoảng thời gian Việt Nam phải đối mặt với nhiều rào cản nhất, cả về kỹ thuật lẫn phi kỹ thuật, không chỉ đối với cá tra, cá ba sa mà còn đối với cả tôm. Hầu hết các rào cản này đều xuất phát từ vấn đề chất lượng.


Hiện tượng phản đối các sản phẩm cá tra, cá ba sa của Việt Nam xảy ra từ Ai Cập tới Tây Ban Nha, Mỹ, Pháp, Ý mà mới đây nhất là trường hợp của New Zealand.

Trong bối cảnh các rào cản từ các thị trường được lập ra ngày càng nhiều đối với mặt hàng thủy sản của Việt Nam thì Chính phủ, các ban ngành, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam cũng đã và đang có các động thái nhằm ứng phó với các rào cản này.


Nhằm góp phần khắc phục những yếu kém trong khâu sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL, vào tháng 5-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập Ban chỉ đạo sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL.


Ban chỉ đạo gồm có 20 thành viên, trong đó Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm trưởng ban, các thành viên bao gồm đại diện lãnh đạo một số bộ, ngành liên quan và các địa phương vùng ĐBSCL. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang xúc tiến thành lập Hiệp hội Cá tra ĐBSCL.


Ban chỉ đạo sản xuất và tiêu thụ cá tra ĐBSCL đang lên kế hoạch vận động và thực hiện việc áp mã số, mã vạch cho cá tra, cá ba sa của vùng. Như vậy, mỗi hộ nuôi sẽ có một bộ hồ sơ từ nguồn gốc con giống, chế độ dinh dưỡng, nhật ký dùng thuốc trị bệnh, thức ăn chăn nuôi, điều kiện vệ sinh đến vùng nuôi, ao nuôi. Khi đã tuân thủ đầy đủ các quy trình trên mỗi hộ nuôi sẽ được cấp một mã số, mã vạch. Điều này là hết sức cần thiết trong bối cảnh các thị trường ngày càng có những đòi hỏi khắt khe hơn về vệ sinh an toàn chất lượng sản phẩm, truy xuất nguồn gốc sản phẩm...
 
    
Việt Nam đã và đang có những động thái nhằm vừa củng cố những thị trường lớn, truyền thống vừa mở rộng các thị trường mới cho xuất khẩu cá tra, cá ba sa nói riêng và các sản phẩm thủy sản nói chung. Đối với cá tra, cá ba sa, trước mắt, Ban điều hành xuất khẩu cá tra sang thị trường Nga tiếp tục duy trì hoạt động và có những điều chỉnh phù hợp với chỉ tiêu xuất khẩu cho 10 doanh nghiệp chế biến được phép xuất khẩu vào thị trường Nga. Đồng thời Ban điều hành cũng tiếp tục đàm phán để tăng số lượng doanh nghiệp và khối lượng xuất khẩu vào thị trường này.


Đối với thị trường Mỹ, Việt Nam tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ của người tiêu dùng Mỹ, vận động và thuyết phục các nhà làm luật Mỹ loại cá tra Việt Nam ra khỏi danh mục cá da trơn (catfish). Theo báo cáo thủy sản quí 2-2009 của Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO), xuất khẩu cá tra sang Mỹ trong năm tháng đầu năm 2009 vẫn tăng rất mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, bất chấp khối lượng cá da trơn bán ra của những nhà chế biến nước này giảm.

Theo trung tâm này, năm tháng đầu năm 2009, lượng cá tra, cá ba sa mà Mỹ nhập khẩu từ Việt Nam cho tiêu dùng trong nước tăng mạnh (tăng 36,3%, tương đương tăng 3.413 tấn), trong khi lượng cá da trơn được bán ra trên toàn nước Mỹ trong cùng thời gian này lại giảm 12,5% so với cùng kỳ năm 2008.


Bên cạnh đó, năm tháng đầu năm 2009 tiếp tục ghi nhận những tín hiệu tốt trong chuyển dịch thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Nhiều thị trường tuy còn nhỏ nhưng lại có sự tăng trưởng kim ngạch tốt như thị trường Đông Âu, châu Á và các nước Ả Rập.


Nhiều năm qua, ngành thủy sản đã quá chú trọng đến việc xuất khẩu các sản phẩm thủy sản tươi sống và đông lạnh mà ít quan tâm đến việc tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm. Việc các rào cản thương mại được lập ra ngày càng nhiều để đối phó với các sản phẩm cá tra, cá ba sa, tôm của Việt Nam đã đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý và bản thân các doanh nghiệp phải có những điều chỉnh về chính sách và chiến lược kinh doanh cho phù hợp.


Chẳng hạn như Mỹ, nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ hai trên thế giới, có tỷ lệ nhập khẩu thủy sản tươi sống và đông lạnh là 31,2% trong năm tháng đầu năm 2009 (tỷ lệ này của năm tháng đầu năm 2008 là 36,5%), còn lại là nhập khẩu thủy sản chế biến (chiếm 68,8%).

Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn
Quảng cáo sản phẩm