Vụ GPX – Nhân tố mới trong thông lệ kiện chống trợ cấp đối với các nước xuất khẩu có nền kinh tế phi thị trường?

29/01/2012 12:00 - 2699 lượt xem

Cuối tháng 12/2011, Tòa án Phúc thẩm Hoa Kỳ đã đưa ra phán quyết trong vụ GPX Int’l Tire Corp. v. United States khẳng định việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) áp đặt thuế đối kháng đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nền kinh tế phi thị trường (NME) là trái với quy định pháp luật liên quan của Hoa Kỳ. Tuy vụ kiện liên quan đến các nhà xuất khẩu Trung Quốc, phán quyết này của Tòa án Hoa Kỳ có thể là một án lệ có ảnh hưởng quan trọng đến quyền và lợi ích của các nhà sản xuất, xuất khẩu Việt Nam trong các vụ kiện chống trợ cấp mà họ đã, đang hoặc sẽ phải đối mặt ở thị trường này.

I. Câu chuyện về kiện chống trợ cấp đối với NME trong pháp luật và các án lệ Hoa Kỳ

Luật Thuế quan năm 1930 của Hoa Kỳ cho phép Bộ Thương mại nước này (DOC) được áp dụng thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ có hiện tượng bán phá giá hoặc được trợ cấp nội địa từ Chính phủ nước xuất khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa liên quan của Hoa Kỳ.

Trong khi việc áp thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu bán phá giá là tương đối rõ thì việc có áp thuế chống trợ cấp đối với hàng hóa đến từ nước có nền kinh tế phi thị trường (nơi về nguyên tắc Nhà nước kiểm soát giá cả và sản xuất, tức là không có “giá thị trường” để xác định đâu là “trợ cấp nội địa”) lại gây khá nhiều tranh cãi.

Ngoài ra, việc cùng lúc áp đặt thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp đối với cùng một loại hàng hóa nhập khẩu từ nước NME cũng đặt ra những khúc mắc pháp lý khó giải quyết bởi có thể xảy ra hiện tượng thuế chồng thuế (đánh thuế chống bán phá giá đối với phần giá trị hàng hóa mà vốn đã bị đánh thuế chống trợ cấp do theo lý thuyết thì không thể phân biệt được trợ cấp nội địa và giá trị thực của hàng hóa tại thị trường nước xuất khẩu).

Những quy định trong Luật Thuế quan 1930 (cùng với nhiều sửa đổi/cập nhật sau đó, đặc biệt khi Hoa Kỳ tham gia GATT 1947 và WTO 1995) không cung cấp câu trả lời rõ ràng cho những khúc mắc này.

Năm 1983, lần đầu tiên DOC phải trực tiếp tìm lời giải cho bài toán hóc búa về điều tra chống trợ cấp đối với NME khi tiếp nhận đơn kiện chống trợ cấp của ngành thép nước này (mà đứng đấu là Công ty Thép Georgetown) đối với dây thép carbon nhập khẩu từ Cộng hòa Séc (một nước bị xem là NME theo pháp luật của Hoa Kỳ). Sau một năm điều tra, năm 1984 DOC ra kết luận pháp luật về chống trợ cấp không thể được áp dụng đối với sản phẩm đến từ NME. Các nhà sản xuất thép nội địa Hoa Kỳ tất nhiên không đồng tình với kết luận này của DOC, họ đã kháng kiện ra Tòa án Thương mại Quốc tế (CIT) và đã thắng trước Tòa này. DOC kháng kiện phán quyết của CIT ra Tòa Phúc thẩm Liên bang. Với lập luận rằng “trợ cấp là một công cụ được sử dụng bởi chính phủ nhằm làm méo mó các tác động của thị trường đối với doanh nghiệp” và với định nghĩa này thì ở các nước NME không thể có “trợ cấp” (bởi với việc Nhà nước kiểm soát giá cả, không tồn tại cái gọi là “thị trường” ở các nước NME này), DOC đã thuyết phục được Tòa Phúc thẩm Liên bang và năm 1987, Tòa này đã tuyên cách làm của DOC – từ chối điều tra và áp dụng thuế chống trợ cấp đối với hàng hóa đến từ NME – là hợp pháp.

DOC tiếp tục đi theo “lựa chọn pháp lý” này của mình cho đến năm 2007 khi Cơ quan này ra quyết định có thể áp dụng thuế chống trợ cấp đối với sản phẩm giấy từ Trung Quốc, một nước NME. Quyết định này không phân tích Luật Thuế quan 1930, cũng không bàn về “lịch sử” việc áp dụng luật thuế chống trợ cấp mà chỉ lập luận đơn giản là “dù vẫn là một nước NME, Trung Quốc ngày nay khác so với nền kinh tế theo mô hình Soviet trong án lệ năm 1987 của Tòa Phúc Thẩm Liên bang” và vì thế có thể áp dụng luật chống trợ cấp cho Trung Quốc.

“Tấm bình phong” cho các nước NME đã đổ. Kể từ “bước ngoặt 2007” đó tới nay, DOC tiếp tục điều tra và áp đặt thuế chống trợ cấp đối với nhiều sản phẩm khác của Trung Quốc (và của cả Việt Nam, với 3 vụ túi nhựa năm 2009, ống thép và turbin điện gió năm 2010). Năm 2008, DOC ra phán quyết áp đặt đồng thời thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp đối với lốp xe Trung Quốc. Cùng với sáu bị đơn khác, GPX, bị đơn lớn nhất trong vụ việc này, đã kiện quyết định áp thuế này của DOC ra CIT. CIT đã không đưa ra được một kết luận rõ ràng nào trong vụ này: một mặt, CIT cho rằng nhìn từ góc độ pháp luật, không có chỗ nào cấm DOC không được áp đặt thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với cùng một sản phẩm đến từ NME; mặt khác, Tòa này lại cũng thừa nhận việc áp đặt thuế như vậy có thể có nguy cơ “thuế chồng thuế”. Phán quyết của CIT, vì vậy, yêu cầu DOC hoặc là bỏ thuế chống trợ cấp đối với các bị đơn, hoặc là tìm cách tính toán bổ sung để đảm bảo không có yếu tố “thuế chồng thuế”.

Trước phán quyết này, DOC chọn cách bù trừ một phần thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp. Tuy vậy các bị đơn vẫn không chấp nhận, tiếp tục kiện ra CIT phản đối cách làm mới này của DOC (vụ GPX III). CIT đồng ý với các bị đơn, cho rằng cách “bù trừ” như DOC đã làm là không phù hợp và yêu cầu DOC phải bỏ hoàn toàn thuế này. DOC cuối cùng đã phải chấp nhận làm theo yêu cầu này. Mặc dù vậy, các bên vẫn tiếp tục kháng kiện phán quyết của CIT lên Tòa án Phúc thẩm Liên bang.

Cuối tháng 12/2011 vừa rồi, Tòa án Phúc thẩm đã đưa ra một phán quyết làm “nức lòng” các nhà sản xuất lốp xe Trung Quốc nói riêng và các nhà xuất khẩu đến từ một số nước ít ỏi còn lại bị xem là có NME nói chung, trong đó có Việt Nam. Trong phán quyết này, Tòa Phúc thẩm không chỉ dừng lại ở việc ủng hộ phán quyết của CIT theo đó việc áp dụng đồng thời thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp đối với sản phẩm từ NME là “không hợp lý” bởi có nguy cơ “thuế chồng thuế” cao mà còn khẳng định một cách rõ ràng rằng “các khoản thanh toán từ Chính phủ không thể được xem như khoản trợ cấp trong bối cảnh NME, và vì vậy pháp luật thuế chống trợ cấp không thể áp dụng cho các nước NME”.

Thông tin đầy đủ của Nghiên cứu này có trong tập đính kèm dưới dây.

Nghiên cứu thực hiện tháng 12/2011
Nguồn: Hội đồng Tư vấn về Phòng vệ Thương mại - WTO

Tải tài liệu
The GPX Case-Recommendation for Vietnam
Quảng cáo sản phẩm