Vụ việc tư vấn số 14 - Thép Việt Nam bị điều tra CBPG và chống trợ cấp tại Hoa Kỳ - Phương án hành động cho các DN thép VN

17/06/2014 11:03 - 3677 lượt xem

Ngày15/11/2011, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã ra quyết định khởi xướng điều tra chốngbán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm ống thép cac-bon tiêu chuẩn nhậpkhẩu từ Việt Nam, Ấn Độ, Oman và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống nhất. Quyết địnhkhởi xướng này được đưa ra sau khi có đơn kiệnngày 26/10/2011 của 4 công ty HoaKỳ là Allied Tube & Conduit, JMC Steel Group, Wheatland Tube, và Tập đoànthép Hoa Kỳ. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp một số nội dung chính của cuộc điềutra và khuyến nghị phương án hành động cho Hiệp hội và các doanh nghiệp thép ViệtNam.

I.                  Thông tin chính của vụ kiện

Bên đệ đơn:

Ngày26/10/2011, Công ty Allied Tube and Conduit, JMC Steel Group, Wheatland Tube,và Tập đoàn Thép Hoa Kỳ (United States Steel Corporation) đã đệ đơn lên DOC yêucầu cơ quan này khởi xướng điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp đối vớicác sản phẩm ổng thép nhập khẩu từ Việt Nam, Ấn Độ, Oman và Các Tiểu Vương QuốcẢ Rập.

Giai đoạn điều tra: DOC sẽ điều tra căn cứ vào các dữ liệu tronggiai đoạn:

Đối với điều tra chống trợ cấp: từ 01/01/2010 đến 31/12/2010 (áp dụng cho cả 4 nước: Việt Nam, Ấn Độ,Oman và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập)

Đối với điều tra chống bán phá giá: từ 01/04/2011 đến 30/09/2011 (đối với Việt Nam) và từ 01/10/2010 đến30/09/2011 (đối với Ấn Độ, Oman và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập)

Sản phẩm bị điều tra:

Cácloại ống và ống dẫn thép hàn cacbon có đường kính không quá 406.4mm, bất kể độdầy, bề mặt hay các thông số kỹ thuật, thường được gọi là ống tiêu chuẩn, ống, ốngdẫn hàng rào, ống nước và ống xây dựng. Đặc biệt, điều khoản “hàm lượng cacbon”trong các sản phẩm phải đạt: (a) sắt chiếm ưu thế về hàm lượng; (b) hàm lượngcacbon ít hơn hoặc bằng 2%; và không bao gồm một số chất và vượt quá số lượng,hàm lượng được nêu chi tiết trong Đơn kiện

 

Cácsản phẩm bị nêu tên trong đơn kiện có mã HTSUS trong Biểu Hài hòa Thuế quan củaHoa Kỳ là: 7306.19.1010; 7306.19.1050; 7306.19.5110; 7306.19.5150;7306.30.1000; 7306.30.5025; 7306.30.5032; 7306.30.5040; 7306.30.5055;7306.30.5085; 7306.30.5090; 7306.50.1000; 7306.50.5050 và 7306.50.5070. Tuynhiên, mô tả sản phẩm là yếu tố quyết định liệu hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ có nằmtrong phạm vi sản phẩm bị điều tra hay không.

Các Doanh nghiệp Việt Nam có liên quan:

Đơnkiện chống bán phá giá, chống trợ cấp này áp dụng cho tất cả các doanh nghiệpViệt Nam có xuất khẩu sản phẩm bị kiện sang Hoa Kỳ. Tuy vậy, Đơn kiện có nêuđích danh (như là ví dụ) một số doanh nghiệp sau đây:

·       Asia HuuLien Joint Stock Co., Ltd.;

·       DaiwaLance International Company, Ltd.;

·       Hoa PhatSteel Pipe Co.

·       Hoa SenGroup;

·       Hyundai-HuyHoang Pipe;

·       SeAHSteel Vina Corporation;

·       TianjinLida Steel Pipe Group;

·       VietnamGermany Steel Pipe JSC (“VG-Pipe”)

·       Vinapipe;

·       VingalIndustries Co., Ltd.

Các thời hạn dự kiến:

Căncứ vào pháp luật liên quan của Hoa Kỳ thì các thời hạn của vụ việc này dự kiếnsẽ như sau (chưa tính đến các thay đổi/gia hạn của cơ quan có thẩm quyền):

 

Điều tra

Chống bán phá giá

Điều tra

Chống trợ cấp

Ngày đệ đơn

26/10/2011

26/10/2011

Ngày đưa ra quyết định khởi xướng

15/11/2011

15/11/2011

Ngày ITC ban hành Bản câu hỏi sơ bộ

02/11/2011

02/11/2011

Thời hạn trả lời Bản câu hỏi sơ bộ

12/11/2011

12/11/2011

Họp nội bộ ITC

16/11/2011

16/11/2011

Thời hạn công bố kết quả họp nội bộ ITC

19/11/2011

19/11/2011

ITC ra quyết định sơ bộ về thiệt hại

10/12/2011

10/12/2011

DOC ra quyết định sơ bộ

23/05/2012

24/03/2012

DOC ra quyết định chính thức

05/10/2012

05/10/2012

ITC ra quyết định chính thức

19/11/2012

19/11/2012

 

II.              Phântích những yếu tố bất lợi và thuận lợi đối với Việt Nam trong vụ kiện

1.     Nhữngyếu tố bất lợi

-        Đâylà vụ kiện kép cả chống bán phá giá và chống trợ cấp: Điềunày đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ phải bỏ gấp đôi thời gian, công sức vàtiền bạc để thuê luật sư tư vấn, chuẩn bị tài liệu, trả lời bảng câu hỏi, gửi bảngcâu hỏi….Và nếu kết luận cuối cùng dẫn đến việc áp cả hai loại thuế chống bánphá giá và chống trợ cấp thì doanh nghiệp sẽ rơi vào tình cảnh “một cổ haitròng”, cùng lúc phải chịu hai thứ thuế, việc cạnh tranh tại thị trường Hoa Kỳvì vậy có thể sẽ khó khăn hơn nhiều.

Đối với một ngành chưatừng có kinh nghiệm kháng kiện chống bán phá giá cũng như chống trợ cấp nhưngành thép thì việc cùng lúc phải đối phó với hai vụ kiện là điều rất khó khăn.Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu mặt hàng bị điều tra lại chủyếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên hệ thống kế toán chứng từ thường không đạttiêu chuẩn và nguồn lực dành cho những vụ kiện như thế này cũng không có nhiềuđể theo kiện đầy đủ và hiệu quả.

-        Ngànhsản xuất thép Hoa Kỳ có “truyền thống” bảo hộ rất mạnh thông qua các biện phápphòng vệ thương mại: Trong số 365 vụ điều tra phòng vệthương mại của Hoa kỳ tính đến tháng 6/2011 thì có tới 136 vụ điều tra – tức làhơn 1/3 số vụ liên quan đến thép và các sản phẩm từ thép. Trong đó, ống thépcac-bon tiêu chuẩn đã từng nhiều lần bị kiện. Vụ đầu tiên là năm 2001, Hoa Kỳtiến hành điều tra chống bán phá giá đối với Trung Quốc, Indonesia, Malaysia,Romania, Nam Phi nhưng sau đó do không có đủ bằng chứng về thiệt hại nên vụ kiệnchấm dứt mà không đi đến kết luận áp thuế. Lần thứ hai là năm 2007, Hoa Kỳ kiệnđồng thời chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với Trung Quốc. Kết quả làthép cac-bon tiêu chuẩn của Trung Quốc bị áp thuế chống bán phá giá 69,2%-85,55%, thuế chống trợ cấp 29,62-616,83%, các lệnh áp thuế này vẫn còn hiệu lực cho đếnbây giờ. Đâycũng là một “án lệ” rất nguy hiểm mà Hoa Kỳ có thể áp dụng lại đối với Việt Namtrong vụ việc này.

-      Xuất khẩu ống thép sang Hoa Kỳ tuycòn nhỏ nhưng có thể có triển vọng: Mặc dù hiện tại chưacó số liệu thống kê đầy đủ về kim ngạch xuất khẩu ống thép cac-bon tiêu chuẩn củaViệt Nam sang Hoa Kỳ nhưng nói chung thép không phải là một sản phẩm xuất khẩuchủ lực của Việt Nam, và ống thép cac-bon tiêu chuẩn cũng không phải là mặthàng xuất khẩu lớn trong số các sản phẩm thép xuất khẩu của Việt Nam. Tuynhiên, lượng xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng liên tục trong những năm gần đây cho thấyđây có thể là một sản phẩm xuất khẩu triển vọng. Do đó, vụ kiện có thể tạo ranhững rào cản đáng kể cho năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp cận thị trườngHoa Kỳ của sản phẩm này. Đồng thời nó có thể tạo ra tâm lý không tốt cho doanhnghiệp xuất khẩu các sản phẩm khác sang Hoa Kỳ khi mà “cứ hễ” sản phẩm nào xuấtkhẩu nhanh và mạnh một chút là ngay lập tức phải đối mặt với nguy cơ bị kiện.

-      Riêng đối với vụ kiện chống trợ cấp,rủi ro và phạm vi tác động có thể vượt rangoài phạm vi của sản xuất ống thép. Cụ thể, thường thì một chương trình bịcáo buộc là trợ cấp gây thiệt hại có thể không chỉ áp dụng với một sản phẩm cụthể là đối tượng điều tra mà có thể áp dụng cùng lúc (hoặc có những điểm tương đồngvới các chương trình khác) cho nhiều sản phẩm khác trong ngành hoặc thậm chí vớinhiều ngành. Do đókết quả kháng kiện chống trợ cấp ở vụ thép có thể sẽ ảnh hưởngkhông nhỏ đến kết quả các vụ kiện chống trợ cấp trong tương lai ở Hoa Kỳ đối vớihàng hóa xuất khẩu Việt Nam. Vì vậy dù ống thép tiêu chuẩn không phải (hoặcchưa phải) là mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam, việc kháng kiện chống trợ cấptrong vụ việc này vẫn cần phải được thực hiện cẩn trọng, tránh tạo ra những “ánlệ” bất lợi cho Việt Nam trong tương lai.

 

2.     Nhữngyếu tố thuận lợi:

-      Kinh nghiệm và bài học rút ra từ vụkiện túi nhựa: Vì đây là lần thứ hai Việt Nam bị kiệnchống trợ cấp và cũng là lần thứ hai bị kiện kép chống trợ cấp và chống bán phágiá nên ít nhiều chúng ta cũng đã rút ra được bài học kinh nghiệm từ vụ kiệntrước, đặc biệt là bài học về sự cách thức phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước vàdoanh nghiệp, về các phương án đối phó đối với từng loại cáo buộc trợ cấp vàphá giá….

-      Những lập luận thành công của ViệtNam trong vụ kiện chống trợ cấp đối với túi nhựa PE trước DOC tạo tiền lệ tốtcho Việt Nam trong các vụ điều tra chống trợ cấp sau tại Hoa Kỳ, trong đó có vụống thép này: Trong các vụ điều tra chống trợ cấp đốivới các sản phẩm đến từ cùng một nước xuất khẩu, sẽ có những vấn đề có tính chấtgiống nhau và một khi DOC đã có kết luận rõ ràng về một vấn đề nào đó thì khảnăng lớn là cơ quan này sẽ ra kết luận tương tự cho những vấn đề này ở các vụtiếp theo. Ở vụ túi nhựa, có hai nộidung được xem là “thắng lợi” của Việt Nam và có tác động tốt đến vụ ống thépnày. Thứ nhất, ở vụ túi nhựa PE, Việt Nam đã đấu tranh thành công để DOC chấpnhận coi ngày 11/01/2007, ngày Việt Nam chính thức gia nhập WTO, là mốc để chỉcác trợ cấp sau ngày này mới bị xem là có thể bị khiếu kiện. Đây được xem là mộtđiểm thuận lợi cho Việt Nam bởi sau thời điểm 11/1/2007, Việt Nam đã bắt đầu thựchiện đầy đủ các nghĩa vụ trong khuôn khổ WTO, trong đó có việc loại bỏ các trợcấp không hợp pháp theo WTO. Và vì vậy nguy cơ Việt Nam bị cáo buộc trợ cấptrái WTO sẽ được giảm bớt nhiều. Thứ hai, kết thúc điều tra vụ túi nhựa DOC đã bácbỏ cáo buộc về nhiều chương trình trợ cấp mà nguyên đơn nêu và bỏ lửng kết luậnvới một số chương trình trợ cấp khác. Trong vụ kiện chống trợ cấp thép lần này,có khoảng 2/3 trong số các chương trình trợ cấp bị nguyên đơn cáo buộc có tínhchất tương tự với các chương trình đã bị kiện trong vụ Túi nhựa, vì vậy ViệtNam hoàn toàn có thể sử dụng các lập luận tương tự vụ túi nhựa để áp dụng trongtrường hợp đã “thắng” trong vụ túi nhựa (tất nhiên với các dẫn chứng cụ thể củangành thép) và có điều kiện để tập trung nguồn lực nhiều hơn nhằm đối phó vớicác chương trình trợ cấp bị cáo buộc mới xuất hiện trong vụ việc này hoặc đã xuấthiện trong vụ túi nhựa nhưng DOC chưa có kết luận cuối cùng. 

III.           Khuyếnnghị phương án hành động cho Hiệp hội và các doanh nghiệp ống thép Việt Nam

1.     Khuyếnnghị chung

-      Sẵn sàng “sống chung với lũ”:trong bối cảnh toàn cầu hóa và khủng hoảng kinh tế như hiện nay thì việc các nướctăng cường sử dụng, thậm chí là lạm dụng các công cụ phòng vệ thương mại nhằm bảohộ cho sản xuất nội địa là một xu hướng có thể dự đoán được. Là một nước xuấtkhẩu, Việt Nam phải chấp nhận thực tế này khi xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài,đặc biệt là Hoa Kỳ, nơi có “truyền thống” kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp.Vì vậy vấn đề chuẩn bị và có phương án thích hợp để có thể “sống chung với lũ”,để vừa gia tăng xuất khẩu, vừa đối phó với nguy cơ bị kiện, và nếu vụ kiện xảyra thì kháng kiện và đạt kết quả tốt nhất chứ không phải là tranh luận về tínhcông bằng hay không của các vụ kiện này.

-     Tích cực, chủ động tham giakháng kiện: Trong tấtcả các vụ kiện chống bán phá giá hay trợ cấp, ở tất cả các thị trường không chỉriêng Hoa Kỳ thì việc tham gia đầy đủ của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng đểbảo vệ lợi ích của mình. Bởi vì nếu doanh nghiệp không hợp tác đầy đủ với cơquan điều tra thì sẽ bị sử dụng các thông tin sẵn có bất lợi cho doanh nghiệp.Kết quả là doanh nghiệp sẽ chịu mức thuế cuối cùng rất cao so với các doanhnghiệp có tham gia và hợp tác đầy đủ.

-     Phối hợp đoàn kết giữa cácdoanh nghiệp: Việc thốngnhất hành động giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn được lựachọn làm bị đơn bắt buộc là rất cần thiết để đạt được kết quả cuối cùng tốt nhấtcho toàn ngành. Theo quy định của Hoa Kỳ thì chỉ có một số doanh nghiệp (thườnglà doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất) được lựa chọn làm bị đơn bắtbuộc và được tính mức thuế suất riêng, mức thuế của các doanh nghiệp còn lại tựnguyện hợp tác không được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc sẽ được tính dựa trên mứcthuế của những doanh nghiệp được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc. Vì vậy, cácdoanh nghiệp cần có sự phối hợp với nhau cả về phương hướng hành động lẫn nguồnlực vật chất để đảm bảo kết quả cuối cùng đảm bảo lợi ích cho tất cả các doanhnghiệp.

Trong vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với túi nhựa Việt Nam tại Hoa Kỳ, cả ba doanh nghiệp được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc đều là các doanh nghiệp FDI. Trong giai đoạn đầu điều tra, cả ba doanh nghiệp này đều tham gia đầy đủ và đạt được biên độ chống bán phá giá, chống trợ cấp sơ bộ tương đối thấp. Tuy nhiên, đến giai đoạn điều tra cuối cùng, một doanh nghiệp đã bỏ cuộc và đóng cửa nhà máy tại Việt Nam, một doanh nghiệp khác tuy vẫn tích cực hợp tác nhưng lại không cung cấp đủ thông tin và thông tin đưa ra cũng không thống nhất. Kết quả là hai doanh nghiệp này bị áp dụng thông tin sẵn có bất lợi để tính biên độ phá giá/trợ cấp dẫn đến mức thuế cuối cùng rất cao, kéo theo mức thuế chung của các doanh nghiệp còn lại cũng rất cao.

 

-     Phối hợp chặt chẽ với cơ quannhà nước có thẩm quyền: Mặc dù kết quả cuối cùng của một vụ kiện chống trợ cấp có tác độngtrực tiếp đến doanh nghiệp nhưng vai trò của Nhà nước trong quá trình kháng kiệnlà rất quan trọng bởi Nhà nước là một bêncủa vụ kiện, là đối tượng cung cấp các hình thức trợ cấp bị điều tra. Tuynhiên, để xác định mức độ trợ cấp cơ quan điều tra cũng lấy thông tin từ phíacác doanh nghiệp – đối tượng được hưởng các trợ cấp này. Vì vậy, doanh nghiệp cầnphối hợp với Nhà nước để cung cấp thông tin một cách thống nhất và có lợi.

2.     Khuyếnnghị cụ thể

-     Cácdoanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu sản phẩm ống thép bị điều tra, hiệp hội Thép ViệtNam cùng với cơ quan Nhà nước quản lý về vấn đề này (Cục quản lý cạnh tranh – BộCông Thương) cần sớm thống nhất được phương thức hành động chung thích hợp.

-     Sớm thốngnhất việc lựa chọn thuê luật sư để hỗ trợ Chính phủ và doanh nghiệp trong vụ việcnày. Kinh nghiệm từ các vụ kiện trước cho thấy nên thuê luật sư tại chính nướcđiều tra và có nhiều kinh nghiệm trong việc hỗ trợ các nước bị điều tra khángkiện thành công.

-     Nhanhchóng tập hợp số liệu xuất khẩu của từng doanh nghiệp để xác định doanh nghiệpnào có lượng xuất khẩu mặt hàng bị điều tra sang Hoa Kỳ lớn nhất vì thường cơquan điều tra sẽ lựa chọn các doanh nghiệp này làm bị đơn bắt buộc. Như đã nói ởtrên, việc tham gia kháng kiện của các bị đơn bắt buộc là rất quan trọng, ảnhhưởng đến các doanh nghiệp còn lại. Do đó cần xây dựng phương án đối phó riêngcho các doanh nghiệp này.

-     Cácdoanh nghiệp không được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc nên tham gia vào vụ kiện vớitư cách là bị đơn tự nguyện bằng cách gửi thông tin tự giới thiệu mình với cơquan điều tra và trả lời bảng câu hỏi điều tra.

-     Trong suốtquá trình điều tra, đặc biệt là điều tra về trợ cấp, doanh nghiệp cần phối hợpchặt chẽ với Nhà nước để cung cấp thông tin một cách thống nhất và hiệu quả.

-     Ngoàira, doanh nghiệp cần tư vấn và hỗ trợ trực tiếp có thể liên hệ với Hội đồng Tưvấn về Chống bán phá giá, Chống trợ cấp và Tự vệ (Hội đồng TRC) của PhòngThương mại và Công nghiệp Việt Nam, trang web www.chongbanphagia.vn.

 

Nguồn:Hội đồng Tư vấn về Phòng vệ Thương mại - VCCI

Quảng cáo sản phẩm