Triển vọng thương mại từ ACFTA

12/01/2010 06:55 - 861 lượt xem

Ngày 7-1-2010, tại thành phố Nam Ninh, thủ phủ tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, diễn ra lễ kỷ niệm sự kiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) được thiết lập đầy đủ. Bên cạnh các cơ hội, ACFTA cũng mang lại không ít thách thức cho các doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.


Quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới này được phát động năm 2002 với việc ký kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc. Tiếp đó Hiệp định về Thương mại hàng hóa (2005), Hiệp định về Thương mại dịch vụ (2006), Hiệp định về Đầu tư (2009) lần lượt được ký kết, hình thành ba trụ cột hợp tác trong ACFTA.


Những đối tác tiềm năng


Với gần 2 tỉ người tiêu dùng, ACFTA là thị trường có quy mô lớn nhất thế giới. Về GDP, với 2.000 tỉ đô la Mỹ, khu vực mậu dịch tự do này còn kém Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ, Liên hiệp châu Âu. Nhưng điều đáng nói là ACFTA bao gồm các nền kinh tế được coi là năng động, đầy tiềm năng đang hướng tới thiết lập vị thế mới của mình trong kinh tế thế giới.

Liên tục từ năm 1992, ASEAN là bạn hàng lớn thứ năm của Trung Quốc. Kim ngạch thương mại hai khối đạt tốc độ tăng trưởng trung bình trên 20% mỗi năm. Nếu năm 2003 (thời điểm trước khi thực hiện Chương trình Thu hoạch sớm) tổng kim ngạch ASEAN - Trung Quốc là 78,2 tỉ đô la Mỹ, thì năm 2008 con số này đã đạt trên 192 tỉ. ASEAN cũng đồng thời là một nhà đầu tư quan trọng vào thị trường Trung Quốc với trên 40 tỉ đô la Mỹ vốn đăng ký.


Với Việt Nam, cả ASEAN và Trung Quốc hiện đang là các đối tác thương mại hàng đầu. Tổng giá trị thương mại với các nước này chiếm tới 35% tổng kim ngạch thương mại của nước ta với thế giới (xem bảng 1).
Những cơ hội cho thương mại


Trong ba hiệp định đã ký kết, những cơ hội rõ rệt nhất đối với Việt Nam liên quan tới Hiệp định Thương mại hàng hóa (TIG).


Do hạn chế về năng lực, xuất khẩu dịch vụ và đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam còn thấp nên ta chưa tranh thủ được nhiều lợi ích từ các hiệp định dịch vụ và đầu tư.


Từ năm 2004, nông thủy sản xuất khẩu của Việt Nam bắt đầu được hưởng lợi từ Chương trình Thu hoạch sớm. Theo đó, các nhóm hàng từ chương 1 đến chương 8 của Biểu thuế (nhóm hàng nông, thủy sản) sẽ cắt giảm thuế trước trong khi chưa đạt được thỏa thuận cắt giảm chung cho toàn bộ biểu thuế.


Từ năm 2006, toàn bộ các mặt hàng này được hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu sang Trung Quốc và ASEAN. Nông sản, thủy sản là các mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam và chiếm khoảng 28% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việc loại bỏ thuế quan bao gồm cả các dòng thuế trên 15% sẽ cải thiện đáng kể sức cạnh tranh của các mặt hàng này trên thị trường Trung Quốc.
 

Đối với các mặt hàng cắt giảm theo lộ trình thông thường, Việt Nam sẽ hoàn thành cắt giảm thuế xuống 0% vào năm 2015.


Trong khi đó, từ 1-1-2010 Trung Quốc đã hoàn thành việc loại bỏ thuế quan với trên 90% danh mục hàng hóa nhập khẩu từ ASEAN (ngoại trừ một số ít mặt hàng nhạy cảm).


Như vậy, giai đoạn từ nay tới năm 2015 là cơ hội cho xuất khẩu của Việt Nam khi hàng xuất khẩu của ta không phải chịu hàng rào thuế quan trong khi chúng ta vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định cho thị trường trong nước.


Từ năm 2013, Việt Nam bắt đầu cắt giảm sâu hàng rào bảo hộ thuế quan để tiến tới loại bỏ thuế với khoảng 90% danh mục hàng hóa vào năm 2015. Đây sẽ là giai đoạn thách thức cho các doanh nghiệp trong nước nếu chúng ta không tận dụng được các cơ hội ACFTA đang mở ra hiện nay.


Trên thực tế, từ năm 2004 thương mại với Trung Quốc tăng mạnh, nhưng xuất khẩu chậm hơn nhập khẩu (bảng 2) dẫn tới tình trạng nhập siêu. Nguyên nhân không phải do tác động trực tiếp của ACFTA. Bởi như phân tích ở trên, lộ trình cắt giảm thuế của Việt Nam chậm hơn năm năm so với Trung Quốc và chúng ta đang trong giai đoạn có lợi thế tăng kim ngạch xuất khẩu.

Quảng cáo sản phẩm