Trung Quốc kiện Hoa Kỳ tại WTO liên quan đến một số biện pháp CBPG mà HK áp dụng đối với sản phẩm của TQ

10/01/2014 12:00 - 1004 lượt xem

Ngày 03 tháng 12 năm2013, Trung Quốc đã gửi tới WTO yêu cầu tham vấn của mình đối với Hoa Kỳ liênquan đến một số phương pháp được Hoa Kỳ áp dụng trong các cuộc điều tra chốngbán phá giá đối với một số sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc (vụ việc DS471).

Trong yêu cầu tham vấn của mình, Trung Quốc cáo buộc rằng mộtsố biện pháp chống bán phá giá mà Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) sử dụng là vi phạmcác quy định của Hiệp định Chống bán phá giá của WTO, bao gồm phương pháp phágiá mục tiêu (targeted dumping) trong các cuộc điều tra ban đầu và các đợtrà soát hành chính; giả định rằng tất  cả các nhà sản xuất và xuất khẩu từnhững nước mà Hoa Kỳ coi là có nền kinh tế phi thị trường (NME) cấu thành mộtthực thể (single entity); cách tính toán một biên độ phá giá chung cho thực thểđó (NME-wide methodology); và việc sử dụng các thông tin sẵn có bất lợi cho mộtbên khi DOC cho rằng bên đó không hợp tác.

Cụ thể, các nội dung Trung Quốc yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳnhư sau:

Việc áp dụng biện pháp phá giá mục tiêu trong các cuộc điềutra ban đầu và rà soát hành chính hàng năm

Phá giá mục tiêu xuất hiện khi một nhà xuất khẩu bán một sảnphẩm thấp hơn giá trị thông thường và giới hạn trong một số giao dịch ví dụtrong một khoảng thời gian nhất định, cho một số đối tượng khách hàng nhất địnhhoặc trong một khu vực địa lý nhất định một cách có quy luật. Khi phát hiện cóhiện tượng phá giá mục tiêu, DOC sẽ áp dụng phương pháp so sánh bình quân giaquyền của giá trị thông thường với giá xuất khẩu của từng giao dịch (phươngpháp W-T)  để tính toán biên độ phá giá của sản phẩm vì DOC cho rằng việcsử dụng phương pháp so sánh bình quân gia quyền của giá trị thông thường vàbình quân gia quyền của giá xuất khẩu (phương pháp W-W) sẽ không phản ánh chínhxác quy luật định giá tương ứng của doanh nghiệp..

 Phương pháp W-T là phương pháp mà theo đó DOC tiếnhành so sánh giá bình quân gia quyền tại thị trường nội địa (giá trị thông thường)với giá xuất khẩu sản phẩm đó sang Hoa Kỳ trong từng giao dịch cụ thể, nếu giáxuất khẩu < bình quân gia quyền của giá trị thông thường tức là có hiện tượngbán phá giá đối với giao dịch đó. Sau đó, DOC sẽ tổng hợp tất cả các so sánhnày để tính toán biên độ phá giá chung cho sản phẩm, nhưng trong quá trình tổnghợp này, đối với những so sánh có giá trị âm (giá xuất khẩu > giá thị trườngnội địa bình quân), DOC lại quy tất cả các so sánh này về bằng không (phươngpháp zeroing). Phương pháp này đã làm tăng biên độ phá giá lên đáng kể, và gâybất lợi cho các nhà sản xuất xuất khẩu bị điều tra.

Trung Quốc cho rằng việc áp dụng phương pháp phá giá mụctiêu này là vi phạm Điều 2.4.2 Hiệp định Chống bán phá giá, do: (1) các bước màHoa Kỳ tiến hành để xác định phá giá mục tiêu là không thích hợp để có thể xácđịnh quy luật (pattern) của giá xuất khẩu; (2) Hoa Kỳ đã không đưa ra được lờigiải thích hợp lý, đầy đủ là tại sao không áp dụng phương pháp bình quân giaquyền – bình quân gia quyền (W-W) hay giao dịch-giao dịch; và (3) Hoa Kỳ sử dụngphương pháp zeroing khi tổng hợp kết quả của từng so sánh W-T  đối với cácgiao dịch xuất khẩu sang Hoa Kỳ.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng cho rằng việc Hoa Kỳ áp dụngphương pháp phá giá mục tiêu trong các cuộc rà soát hành chính là vi phạm Điều9.3 Hiệp định Chống bán phá giá và Điều VI Hiệp định GATT 1994 vì Hoa Kỳ khôngthể đảm bảo được rằng mức thuế áp dụng không vượt quá biên độ phá giá.

Phương pháp mà Hoa Kỳ áp dụng đối với nền kinh tế phi thịtrường

Trong một vụ việc chống bán phá giá liên quan đến những nướcmà Hoa Kỳ cho là có nền kinh tế phi thị trường (NME), Hoa Kỳ giả định rằng tấtcả các nhà sản xuất và xuất khẩu cấu thành một thực thể dưới sự kiểm soát củachính phủ, theo đó một biên độ phá giá chung được xác định. Bị đơn phải cónghĩa vụ phản bác giả định này và họ chỉ có thể làm như vậy bằng cách cung cấpbằng chứng đầy đủ về việc họ không bị kiểm soát bởi chính phủ, cả về mặt quy địnhpháp luật và trên thực tế, đối với hoạt động xuất khẩu của họ.Trung Quốc quanngại rằng việc giả định này vi phạm quy định của Hiệp định Chống bán phá giá củaWTO (Điều 6.10, 9.2 và 9.4) , do: (1) Hoa Kỳ không xác định biên độ phá giáriêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu đã biết hoặc từng nhà sản xuất, xuất khẩumà Hoa Kỳ giới hạn điều tra; (2) thuế chống bán phá giá mà Hoa Kỳ thu trong từngvụ việc là không thích hợp và Hoa Kỳ không nêu tên nhà cung cấp của sản phẩm bịđiều tra; (3) mức thuế suất toàn quốc mà Hoa Kỳ áp dụng cho các nhà sản xuất xuấtkhẩu không bị điều tra cao hơn so với bình quân gia quyền mức thuế suất áp chocác bị đơn bắt buộc (đã loại trừ những mức thuế bằng 0, không đáng kể và mứcthuế dựa trên thông tin sẵn có bất lợi).

Hơn thế nữa, trong quá trình Hoa Kỳ tính toán biên độ phágiá chung (mức thuế suất toàn quốc cho NME), Trung Quốc cho rằng Hoa Kỳ đã áp dụngmột số phương pháp không phù hợp và vi phạm Hiệp định Chống bán phá giá. Cụ thể:

-          HoaKỳ đã không yêu cầu các nhà sản xuất xuất khẩu cung cấp những thông tin cần thiếtđể xác định biên độ phá giá cho tất cả những nhà sản xuất/xuất khẩu chịu mứcthuế suất toàn quốc,

-          HoaKỳ không cho họ cơ hội để cung cấp các bản đệ trình (bằng miệng hay bằng văn bản)nhằm cho phép DOC có thể thiết lập một biên độ phá giá mà không phải sử dụngthông tin thứ cấp (không cho cơ hội có quyền kháng kiện);

-          HoaKỳ không chỉ rõ chi tiết các thông tin mà các bên liên quan  cần cung cấp;và, cũng không yêu cầu các bên này cung cấp các thông tin cần thiết để xác địnhbiên độ phá giá, thay vào đó Hoa Kỳ dựa vào những thông tin có sẵn.

-          Khimột hoặc một số nhà sản xuất xuất khẩu không cung cấp các thông tin được yêu cầu,biên độ phá giá được DOC tính toán dựa trên những thông tin có sẵn. Hoa Kỳ đãkhông đánh giá một cách chính xác và khách quan khi kết luận rằng các nhà sảnxuất xuất khẩu chịu thuế suất toàn quốc không hợp tác trong việc cung cấp thôngtin cần thiết để xác định biên độ phá giá; Hoa Kỳ đã không sử dụng những thôngtin sẵn có tốt nhất, và không thận trọng khi sử dụng nguồn thông tin thứ cấp đểđưa ra kết luận.

-          Docác doanh nghiệp chịu mức thuế suất toàn quốc không được điều tra riêng rẽ nênmức thuế suất đối với các doanh nghiệp này cao hơn mức thuế suất bình quân giaquyền của các bị đơn bắt buộc (mức thuế suất dành cho các doanh nghiệp khác-all others rate)

Trong phần phụ lục của bản yêu cầu tham vấn này, Trung Quốccũng đã dẫn chiếu ra khoảng 17 vụ kiện chống bán phá giá đối với các sản phẩmxuất khẩu từ Trung Quốc mà Trung Quốc cho rằng Hoa Kỳ đã áp dụng các biện phápphá giá không thích hợp.

Đây là vụ kiện thứ 8 của Trung Quốc đối với các biện phápphòng vệ thương mại do Hoa Kỳ áp dụng (và là vụ thứ 4 mà Hoa Kỳ bị các nướckhác kháng kiện lên WTO trong năm nay).

Việt Nam hiện cũng đang bị Hoa Kỳ coi là nước có nền kinh tếphi thị trường do đó những vấn đề nêu trong vụ việc này có liên quan đáng kể tớicác vụ việc phòng vệ thương mại mà sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam bị Hoa Kỳ điềutra, áp thuế.

Nguồn: Cụcquản lý cạnh tranh

 

Quảng cáo sản phẩm