Vì sao xuất khẩu tôm cứ loay hoay ở 3 - 4 tỉ USD?

03/04/2023 11:59 - 14 lượt xem

Nhiều năm qua, giá trị xuất khẩu tôm cứ "loay hoay" ở mức 3 - 4 tỉ USD, trong khi mục tiêu hướng đến 10 tỉ USD vào 2025. Có nhiều ách tắc lâu nay ít được nói ra cả trong ngành tôm cũng như ngành thủy sản.

 

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông NGUYỄN HOÀNG ANH - chủ tịch Công ty đầu tư thủy sản Nam Miền Trung - chia sẻ:

 

- 10 năm trước, xuất khẩu tôm của Thái Lan giống như Việt Nam bây giờ, lúc đó sản lượng của họ 700.000 - 800.000 tấn/năm nhưng nay chỉ còn 100.000 tấn/năm.

 

Còn Việt Nam, chúng ta xuất khẩu 4 tỉ USD nhưng phải nói một cách "đau lòng" là khoảng 50% nhập nguyên liệu về rồi sản xuất.

 

Tăng trưởng chậm vì chưa đầu tư bài bản

 

* Vài năm trước, tại một hội nghị về thủy sản ở miền Tây, người đứng đầu Chính phủ đã đặt mục tiêu xuất khẩu tôm 10 tỉ USD, nhưng từ đó đến nay đã có gì thay đổi?

 

- Mục tiêu 10 tỉ USD tôi chính là tác giả, xuất phát từ việc tôi là chủ tịch Hiệp hội Tôm Bình Thuận. Tôi thấy rằng dư địa của ngành tôm quá lớn với Việt Nam bởi ta có bờ biển dài, có diện tích xâm nhập mặn lớn, có nguồn lực lao động dồi dào.

 

Trong khi đó, ngành tôm thế giới tăng trưởng cơ học hằng năm từ 7 - 10% và tiêu thụ ổn định... Nếu chúng ta tổ chức lại sản xuất của ngành tôm một cách bài bản và đồng bộ, tận dụng diện tích xâm nhập mặn từ biến đổi khí hậu để mở rộng quy hoạch, đầu tư hạ tầng, đáp ứng cho việc sản xuất tôm công nghệ cao thì chinh phục con số 10 tỉ USD sẽ dễ dàng.

 

* Ông có thấy những con số về giá trị xuất khẩu tôm Việt nhiều năm qua có bất thường?

 

- Trong 26 năm gắn bó với ngành tôm, tôi trăn trở về câu chuyện sản xuất và xuất khẩu tôm ở Việt Nam. Anh nào làm ra sản phẩm cũng nói sản phẩm của mình tốt, vậy tại sao ngành này vẫn rối ren, 10 năm rồi ngành tôm cứ hoay hoay trong con số xuất khẩu 3 - 4 tỉ USD.

 

Nếu tính trượt giá trong 10 năm thì những người làm trong ngành tôm không hiệu quả và đang ôm nợ, sống bằng tiền ngân hàng chứ không phải tiền từ giá trị làm ra hay giá trị gia tăng.

 

* Theo ông, vì sao ngành tôm phát triển chậm trong khi đây là một trong hai sản phẩm xuất khẩu chủ lực của thủy sản Việt?

 

- Nói thẳng là chúng ta chưa đầu tư cho ngành này một cách bài bản. Cần đầu tư cái gì? Thứ nhất, đầu tư có trọng điểm. Thứ hai, đầu tư quy hoạch. Thứ ba là hạ tầng và cuối cùng là phải đầu tư cơ chế. Còn về khoa học công nghệ, chủ thể tham gia vào đó họ tự tìm, có thể mua trong 24 giờ.

 

Bốn điểm mấu chốt cần thay đổi

 

* Rõ hơn trong bốn điểm mấu chốt cần đầu tư ở đây là gì?

 

- Là giống làm ở đâu. Ví dụ, ở miền Trung có lợi thế về nguồn nước, khí hậu, thổ nhưỡng, sản xuất giống ở miền Trung 7 con thì sống cả 7, còn miền Nam sống chỉ 3 - 5 con sẽ làm đội chi phí lên.

 

Do đó, cần phải xác định trọng điểm nơi nào làm giống thì quy hoạch, đầu tư trọng điểm cho nuôi giống. Miền Nam thuận lợi để tập trung nuôi thương phẩm thì cần tập trung khâu này và đầu tư hạ tầng thủy lợi để tập trung cho cho nuôi thương phẩm.

 

Về quy hoạch, chúng ta mong muốn hạn ngạch, giá trị như thế nào thì cần phải quy hoạch với diện tích phù hợp.

 

Về đầu tư hạ tầng, nhìn vào ngành lúa mà xem, ví dụ chúng ta có 1 triệu ha, xuất khẩu khoảng 3 tỉ USD, nhưng được đầu tư kênh mương thủy lợi, quy hoạch bài bản. Trong khi đó, ngành tôm cũng xuất khẩu 3 - 4 tỉ USD nhưng chưa được đầu tư hạ tầng kỹ thuật một cách xứng tầm.

 

Cuối cùng, vẫn chưa có một cơ chế chính sách một cách đặc thù, ví dụ sao chưa có một gói tín dụng dành riêng cho ngành tôm? Nếu tiếp cận gói lãi suất thấp, các doanh nghiệp làm ăn bài bản sẽ vay, giúp họ phát triển nhanh hơn nữa, dẫn dắt ngành.

 

Ấn Độ và Ecuador đầu tư bài bản, tái cấu trúc toàn diện từ thời vụ đến mật độ thả nuôi, quy trình kỹ thuật và công nghệ đồng bộ nên giá thành giảm trong khi giá trị nâng lên, lợi nhuận cao.

 

Nếu Việt Nam áp dụng đồng bộ bốn giải pháp trên, tôi nghĩ ngành tôm mới thay đổi được. Còn không làm được thì mãi loay hoay mà thôi và cứ giấu giấu giếm giếm, báo cáo hợp thức hóa thì sẽ không gỡ tận gốc được.

 

Phải thật về chất lượng

 

* Một trong những vấn đề cũng ảnh hưởng đến ngành tôm đó là chất lượng có sự chênh lệch giữa xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, người dân lo về chất lượng có đúng không?

 

- Rất đúng. Tôi lấy ví dụ từ con giống, việc thiết lập tiêu chí trong sản xuất tôm giống để kiểm soát chất lượng hầu như bị bỏ ngỏ. Trong đó việc kiểm soát bằng PCR là cần thiết để tầm soát dịch bệnh. Nhưng nói thật, trong điều kiện hiện nay bao nhiêu doanh nghiệp làm được quy trình, tiêu chí như thế? Rồi từ con giống mình mới suy ra thuốc men, vi sinh, thức ăn, chế phẩm... cũng bát nháo như con giống vậy.

 

Ví dụ như thức ăn, ông nhập nguyên liệu cá về tốt thì sẽ tạo ra được đợt thức ăn tốt. Nhưng có nơi nhập nguyên liệu cá về không tốt thì bỏ cái đạm công nghiệp vô là chết rồi.

 

Do tiêu chuẩn thấp, sản xuất ra sản lượng không ổn định, sản xuất 10 mà không đạt toàn bộ, chỉ có 5 - 7 đạt tiêu chuẩn thôi. Nên sản lượng không ổn định, giá cao hơn nhiều đối thủ cạnh tranh như Ấn Độ và Ecuador tới khoảng 23.000 đồng/kg.

 

* Nhân ông nói về câu chuyện thức ăn cho ngành tôm, dường như ngành này đang rơi vào tay nước ngoài?

 

- Thức ăn nuôi tôm hiện 97 - 98% là các công ty nước ngoài cung cấp. Doanh nghiệp Việt Nam rất muốn sản xuất nhưng dường như khó tiếp cận cơ chế khuyến khích, cụ thể là nguồn vốn đi vay với lãi suất theo thị trường. Giá thành phải tăng cao theo lãi suất của vốn vay, dẫn đến không có cơ hội cạnh tranh, chết ngay từ ý tưởng.

 

Việt Nam cũng cần phải xác lập hàng rào kỹ thuật đối với tôm nguyên liệu nhập khẩu để tạo điều kiện nâng tỉ trọng, sản lượng và quy mô sản xuất của ngành tôm Việt Nam.

 

"Tôi thấy rất tủi thân"

 

* Người Việt sẵn sàng chi 30 USD cho 1kg cá hồi Na Uy trong khi giá xuất khẩu của họ chỉ 10 USD, đây là bài học để nâng giá trị cho con tôm?

 

- Ngành thủy sản trên thế giới, đặc biệt là Na Uy, một sản phẩm cá hồi thôi mà họ tạo ra sự gắn kết, tạo ra giá trị rất cao, đặc biệt là giá trị xuất khẩu.

 

Tôi có điều kiện đi nhiều nước trên thế giới để xem tình hình nuôi thủy sản và phát triển kinh tế từ thủy sản của họ thế nào.

 

Họ cấu trúc sản phẩm, tạo tiêu chuẩn giá trị sản phẩm, tiêu chí doanh nghiệp tham gia trong ngành rất nghiêm nên sản phẩm họ làm ra, đưa ra thế giới rất tự tin về chất lượng, giá trị.

 

Trên thế giới họ xác định sản phẩm có trọng điểm để đầu tư, còn Việt Nam có hàng ngàn sản phẩm và cái nào cũng trọng điểm. Chỉ khi xác định trọng điểm thì mới đầu tư đồng bộ cho sản phẩm đó, từ quy hoạch.

 

Ví dụ đặt mục tiêu mỗi năm kiếm được 10 tỉ USD chẳng hạn, thì tính được ngay sản lượng bao nhiêu, tiêu chuẩn thế nào, rồi phải đầu tư. Còn không thì vẫn cứ mơ đi, tôi đi rất nhiều, tôi thấy rất tủi thân, chúng ta sẽ không làm được, chỉ nhìn và thèm thôi nếu không mạnh dạn thay đổi.

 

Nguồn: TuoiTre Online

Quảng cáo sản phẩm