Giải quyết tranh chấp số DS141

07/01/2015 12:00 - 3070 lượt xem

EC — Thuế chống phá giá với Ga và Vỏ gối Cotton nhập khẩu từ Ấn Độ

 

Tiêu đề:

EC – Ga và vỏ gối

Nguyên đơn:

Ấn Độ

Bị đơn:

EC

Các bên thứ ba:

Ai Cập, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật

Các hiệp định liên quan (được đưa ra trong yêu cầu tham vấn)

Hiệp định ADA (Điều VI của GATT 1994): Điều  3, 3.1, 3.2, 3.4, 3.5, 4, 4.1, 5, 5.2,5.3, 5.4, 5.8, 6, 2, 12, 12.2.2, 15, 2.2.2 ; GATT 1994: Điều  I, VI

Ngày nhận được yêu cầu tham vấn:

03 tháng 08 năm 1998

Ngày lưu hành Báo cáo của Ban Hội thẩm:

30 tháng 10 năm 2000

Ngày lưu hành Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm:

1 tháng 03 năm 2001

Ngày lưu hành Báo cáo của Ban Hội thẩm theo Điều 21.5:

29 tháng 11 năm 2002

Ngày lưu hành Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm theo Điều 21.5:

08 tháng 04 năm 2003

 
Bản tóm tắt về vụ kiện

Bản tóm tắt được cập nhật ngày 24 tháng 02 năm 2010

Thamvấn

Tháng 09/1997, EC khởi xướng điều tra chống bán phá giá đốivới khăn trải giường cotton (cotton-type bed-linen) nhập khẩu từ Ấn Độ. Ngày12/06/1997, EC đã ra quyết định áp thuế chống bán phá giá tạm thời theo Quyết địnhcủa Hội đồng số 1069/97. Tiếp đó, ngày 28/11/1997 EC đã ra quyết định áp thuếchống bán giá chính thức theo Quyết định của Hội đồng số 2398/97.

Ngày 03/08/1998, Ấn Độ yêu cầu tham vấn với EC liên quanđến biện pháp chống bán phá giá nói trên. Ấn Độ cho rằng:

-           việc xácđịnh vị thế của bên khởi kiện, việc khởi xướng điều tra, xác định hành vi phágiá và thiệt hại cũng như các giải thích trong những phán quyết của cơ quan cóthẩm quyền EC là không phù hợp với các quy định của WTO.

-           việc xáclập các tình tiết thực tế của cơ quan có thẩm quyền EC là không phù hợp và việcđánh giá những tình tiết này cũng không khách quan và công bằng.

-           EC khôngtính đến trường hợp đối xử đặc biệt với Ấn Độ - một nước đang phát triển.

-           EC đã viphạm các Điều 2.2.2, 3.1, 3.2, 3.4, 3.5, 5.2, 5.3, 5.4, 5.8, 6, 12.2.2, và 15 củaHiệp định ADA, và các Điều I và VI của GATT 1994.

Giaiđoạn Hội thẩm

Thànhlập Ban Hội thẩm

Tham vấn giữa Ấn Độ và EC không thành công. Vì vậy, ngày07/09/1999, Ấn Độ đã khởi kiện việc này ra WTO bằng cách gửi đơn yêu cầu thànhlập Ban Hội thẩm. Tại cuộc họp ngày 22/09/1999, DSB  đã trì hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm. Tuynhiên, tại cuộc họp ngày 27/10/1999, DSB đã chấp nhận đơn yêu cầu thành lập BanHội thẩm lần 2 của Ấn Độ.

Ai Cập, Nhật Bản và Hoa Kỳ yêu cầu tham gia vụ kiện vớitư cách bên thứ ba.

Ngày 12/01/2000, do hai bên không thống nhất được vềthành phần của Ban Hội thẩm, Ấn Độ đã phải yêu cầu Tổng Giám đốc WTO chỉ địnhcác thành viên cho Ban Hội thẩm. Ngày 24/01/2000, Ban Hội thẩm cuối cùng đã đượcthành lập.

Thông qua Báo cáo của Ban Hội thẩm

Ban Hội thẩm tiến hành xem xét vụ kiện và công khai Báocáo của mình về vụ kiện này ngày 30/10/2000. Trong Báo cáo này, Ban Hội thẩm kếtluận:

i.          EC đãkhông vi phạm các nghĩa vụ của mình theo các Điều 2.2, 2.2.2, 3.1, 3.4, 3.5,5.3, 5.4, và 12.2.2 của Hiệp định ADA trong việc:

-           Tínhtoán lợi nhuận khi xây dựng giá trị thông thường;   

-           Coi  tất cả các hàng nhập khẩu từ Ấn Độ (và Ai Cậpvà Pakistan) là bị bán phá giá trong phân tích thiệt hại gây ra bởi hàng nhậpkhẩu bán phá giá;

-           Xem xétthông tin của các nhà sản xuất hình thành nên ngành sản xuất nội địa nhưng lạikhông thuộc danh sách các nhà sản xuất được chọn mẫu để phân tích tình trạng củangành sản xuất đó;

-           Kiểm tratính chính xác và đầy đủ của các bằng chứng trước khi khởi xướng vụ kiện;

-           Thiết lậpnhững hỗ trợ cần thiết cho ngành sản xuất trong nước trong việc nộp đơn kiện;và

-           Công bốcông khai quyết định cuối cùng.

ii.          Tuynhiên, Ban Hội thẩm cũng kết luận rằng EC đã vi phạm những nghĩa vụ của mìnhtheo các Điều 2.4.2, 3.4, và 15 của Hiệp định ADA trong việc:

-           Xác địnhbiên độ phá giá theo một phương pháp trong đó có sử dụng “Zeroing” (phương phápQuy về 0 các biên độ phá giá âm)

-           Khôngđánh giá tất cả những nhân tố liên quan có ảnh hưởng đến tình trạng của ngành sảnxuất nội địa trong việc xác định thiệt hại (các nhân tố khác ngoài nhân tố hàngnhập khẩu bán phá giá), đặc biệt là tất cả các nhân tố đã nêu trong Điều 3.4 củaHiệp định ADA;

-           Xem xétcả thông tin của các nhà sản xuất không thuộc ngành sản xuất nội địa theo như địnhnghĩa của cơ quan điều tra trong phân tích tình trạng ngành sản xuất; và

-           Khôngxem xét khả năng khắc phục thương mại trước khi áp dụng thuế chống phá giá.

Giaiđoạn Phúc thẩm

Ngày 01/12/2000, EC đã gửi thông báo cho DSB kháng cáo mộtsố vấn đề pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo của Ban Hội thẩm.

Ngày 01/03/2001, Cơ quan Phúc thẩm hoàn thành Báo cáotrong đó:

i.          Tánthành kết luận của Ban Hội thẩm về việc EC áp dụng phương pháp Zeroing để xác định“sự tồn tại của biên độ phá giá” là vi phạm Điều 2.4.2 của Hiệp định ADA;

ii.          Bác bỏkết luận của Ban Hội thẩm về:

-           Phươngpháp tính toán chi phí quản trị, chi phí bán hàng, chi phí chung và lợi nhuậntheo Điều 2.2.2 (ii) Hiệp định ADA có thể được áp dụng khi có số liệu về cácchi phí và lợi nhuận đó của chỉ một nhà sản xuất/xuất khẩu khác; và

-           Khi tínhtoán lợi nhuận theo Điều 2.2.2 (ii) Hiệp định ADA, nước thành viên áp dụng cóthể loại bỏ những giao dịch bán hàng không theo các điều kiện thương mại thôngthường của các nhà sản xuất/xuất khẩu khác.

iii.         Cuốicùng, kết luận rằng EC, khi tính toán chi phí quản trị, chi phí bán hàng, chiphí chung và lợi nhuận trong cuộc điều tra chống bán phá giá mặt hàng này, đãvi phạm Điều 2.2.2(ii) Hiệp định ADA.

Ngày 12/03/2001, DSB đã thông qua Báo cáo của Cơ quanPhúc thẩm và Báo cáo đã chỉnh sửa của Ban Hội thẩm.

Thựcthi

Thành lập Ban hội thẩm tuân thủ theo Điều 21.5

Ngày 05/04/2001, tại cuộc họp của DSB, EC đã thông báo ýđịnh thực thi các khuyến nghị của DSB nhưng cần phải có một khoảng thời gian hợplý. Tuy nhiên Ấn Độ lại cho rằng EC chỉ cần một thời gian ngắn để thực hiện việcnày. Ngày 26/04/2001, các bên thông báo với DSB rằng họ đã đạt được thoả thuậnvề khoảng thời gian hợp lý là 5 tháng và 2 ngày, tức là từ ngày 12/03/2001 đếnngày 14/08/2001.

Để thực thi các khuyến nghị của DSB, EC đã sửa đổi quyếtđịnh áp thuế chống bán phá giá cuối cùng đối với khăn trải giường cotton có xuấtxứ từ Ai Cập, Ấn Độ và Pakistan đồng thời tạm ngừng áp thuế đối với các mặthàng này từ Ấn Độ trước thời hạn 14/08/2001. Mặc dù vậy, tại cuộc họp ngày23/08/2001 của DSB, Ấn Độ đã phát biểu quan điểm cho rằng Quy định mới của ECchưa thực sự tuân thủ các khuyến nghị của DSB.

Ngày 13/09/2001, Ấn Độ và EC thông báo với DSB về việchai bên đã đạt được thoả thuận về quy trình thủ tục theo Điều 21 và 22 của DSU.Theo đó, nếu Ấn Độ, dựa trên các kết quả giải quyết tranh chấp theo điều 21.5 củaDSU (nếu có), quyết định khởi xướng theo Điều 22 thì EC không thể phản đối việcnày với điều kiện yêu cầu khởi xướng phải được đưa ra trong thời hạn 30 ngày.

Ngày 08/03/2002, Ấn Độ yêu cầu tham vấn theo Điều 21.5 củaDSU vì cho rằng EC đã vi phạm các Điều 2, 3, 5.7, 6, 9, 12 và 15 của Hiệp địnhADA. Ngày 04/04/2002, Ấn Độ yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm tuân thủ nhằm đưa racác kết luận rằng:

-           việc xácđịnh lại biên độ phá giá, như đã sửa đổi, và các hành động tiếp sau như đã kểtrên của EC, là vi phạm các Điều nêu trên của Hiệp định ADA và GATT 1994; và

-           với việckhông rút lại những biện pháp được cho là vi phạm Hiệp định ADA và điều chỉnhcác biện pháp cho phù hợp với Hiệp định ADA và GATT 1994, EC đã không tuân thủcác phán quyết và khuyến nghị của DSB trong vụ kiện này.

Ngày 17/04/2002, tại cuộc họp của DSB, Ấn Độ thông báo vớiDSB rằng hai bên đã đạt được thỏa thuận, do đó Ấn Độ yêu cầu rút vấn đề này rakhỏi chương trình nghị sự theo Quy tắc 6 của các Quy tắc về Thủ tục cho các cuộchọp của WTO. DSB đã chấp nhận yêu cầu của Ấn Độ.

Ngày 07/05/2002, Ấn Độ lại yêu cầu thành lập Ban Hội thẩmgiải quyết tranh chấp về vấn đề tuân thủ này (tạm gọi là “Ban Hội thẩm về tuânthủ”). Tại cuộc họp ngày 22/05/2002 DSB đã đồng ý, nếu cần thiết, đưa vấn đềtranh chấp về Ban Hội thẩm ban đầu để giải quyết.

Nhật Bản và Hoa Kỳ tiếp tục giữ quyền tham gia vào vụ kiệnvới tư cách bên thứ 3. Ngày 27/05/2002, Hàn Quốc cũng yêu cầu được tham gia vàovụ kiện với tư cách bên thứ 3.

Ngày 25/06/2002, Ban Hội thẩm về tuân thủ được thành lập.Ngày 19/08/2002, Chủ tịch Ban Hội thẩm thông báo với DSB dự kiến hoàn thànhcông việc vào tháng 11/2002.

Ngày 29/11/2002, Báo cáo của Ban Hội thẩm hoàn thành và gửitới tất cả các thành viên WTO. Trong đó, Ban Hội thẩm kết luận biện pháp chốngphá giá cuối cùng mà EC áp dụng đối với khăn trải giường nhập khẩu từ Ấn Độtheo Quyết định EC 1644/2001 là không vi phạm Hiệp định ADA hay DSU. Do đó, BanHội thẩm kết luận EC đã thực hiện đúng những khuyến nghị của Ban Hội thẩm ban đầu,của Cơ quan Phúc thẩm và DSB nhằm điều chỉnh các biện pháp cho phù hợp với Hiệpđịnh ADA.

Giaiđoạn Phúc thẩm

Ngày 08/01/2003, Ấn Độ đã gửi thông báo cho DSB quyết địnhkháng cáo của mình lên Cơ quan Phúc thẩm một số vấn đề pháp lý và giải thíchpháp luật trong Báo cáo của Ban Hội thẩm. Ngày 06/03/2003, Cơ quan Phúc thẩmthông báo với DSB rằng không thể hoàn thành báo cáo trong vòng 60 ngày và dự địnhsẽ hoàn thành trước ngày 08/04/2003.

Ngày 08/04/2003, Báo cáo phúc thẩm được gửi tới tất cảcác thành viên WTO, trong đó:

-           đồng ý vớiphán quyết của Ban Hội thẩm rằng khiếu nại của Ấn Độ theo Điều 3.5 là không phùhợp và do đó từ chối xem xét lại vấn đề đó,

-           bác bỏphán quyết của Ban Hội thẩm về việc EC đã không vi phạm các đoạn 1 và 2 của Điều3 Hiệp định ADA,  

-           từ chốixem xét lại phán quyết của Ban Hội thẩm về việc EC đã áp dụng biện pháp thay thếthứ hai trong câu thứ hai Điều 6.10 (về việc thay vì điều tra tất cả các nhà xuấtkhẩu có liên quan, cơ quan điều tra chỉ chọn một số nhà xuất khẩu để làm mẫu điềutra) nhằm hạn chế phạm vi điều tra; và

-           nhận thấyBan Hội thẩm đã hợp lý khi từ chối các nghĩa vụ của mình theo Điều 17.6 của Hiệpđịnh ADA và Điều 11 của DSU và, do đó, tán thành kết luận của Ban Hội thẩm rằngEC đã có thông tin trước đó về các nhân tố kinh tế liên quan được liệt kê trongĐiều 3.4 của Hiệp định ADA khi xác định thiệt hại.

Cơ quan Phúc thẩm khuyến nghị DSB yêu cầu EC điều chỉnhcác biện pháp phù hợp với Hiệp định ADA.

Tại cuộc họp ngày 24/ 04/2003, DSB thông qua Báo cáo củaCơ quan Phúc thẩm và Báo cáo đã sửa đổi của Ban Hội thẩm.

Quảng cáo sản phẩm