Giải quyết tranh chấp số DS429

07/01/2015 12:00 - 9031 lượt xem

Hoa Kỳ – Các biện pháp chống bán phá giá đối với tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam

Tham vấn ngày 20/02/2012

Nguyên đơn: Việt Nam
Bị đơn: Hoa Kỳ
Bên thứ ba: Trung Quốc; Ecuador; Liên minh châu Âu; Nhật Bản; Na Uy; Thái Lan
Hiệp định trích dẫn:
(như trích dẫn trong yêu cầu tham vấn)
GATT 1994: Điều 1.1, VI: 1, VI: 2 (a), VI: 2, X
Chống bán phá giá (Điều VI của GATT 1994): Điều 1, 2.1, 2.4, 2.4.2, 6, 9, 11, 17.6 (i), Phụ lục II
Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới: Điều. XVI: 4
Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp: Điều 3.7, 19.1, 21.1, 21.3, 21.5
Yêu cầu tham vấn nhận được: Ngày 20 tháng 2 năm 2012
Bảng điều chỉnh Báo cáo lưu hành:  Ngày 17 tháng 11 năm 2014

Bản tóm tắt dưới đây được cập nhật đến ngày 17 tháng 11 năm 2014.

Tham vấn

Nguyên đơn là Việt Nam.

Khiếu nại của Việt Nam: Ngày 16 tháng 2 năm 2012, Việt Nam yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ về các biện pháp chống bán phá giá áp dụng cho sản phẩm tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam. Ngoài hai lần rà soát hành chính và rà soát cuối kỳ (sunset review), yêu cầu tham vấn lần này của phía Việt Nam còn dẫn chiếu tới Pháp luật, quy định, thủ tục và thực tiễn áp dụng của Hoa Kì, bao gồm cả phương pháp “quy về 0” (zeroing).

Việt Nam khiếu nại rằng các biện pháp trên là không tuân thủ các nghĩa vụ của Hoa Kỳ theo:

• Các điều I:1, VI:1, VI:2 và điều X:3(a) của Hiệp định GATT 1994;

• Các điều 1, 2.1, 2.4, 2.4.2, 6, 9, 11, 17.6(i) và Phụ lục II của Hiệp định về chống bán phá giá;

• Điều XVI:4 của Hiệp định thành lập WTO;

• Các điều 3.7, 19.1, 21.1, 21.3 và 21.5 của Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp (DSU); và

• Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.

Ngày 17 tháng 1 năm 2013, Việt Nam yêu cầu thành lập Ban hội thẩm. Tại cuộc họp ngày 28 tháng 01 năm 2013, DSB đã trì hoãn việc thành lập Ban hội thẩm.

Diễn biến tại Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm

Tại cuộc họp ngày 27 tháng 2 năm 2013, DSB đã thành lập Ban Hội thẩm. Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Na Uy và Thái Lan, sau đó là Ecuador đã bảo lưu các quyền của bên thứ ba. Sau thỏa thuận giữa các bên, Ban hội thẩm được thành lập vào ngày 12 tháng 7 năm 2013. Ngày 30 tháng 1 năm 2014, Chủ tịch của Ban hội thẩm thông báo với DSB rằng Ban hội thẩm dự kiến sẽ đưa ra báo cáo cuối cùng cho các bên vào ngày 30 tháng 9 năm 2014.

Ngày 17 tháng 11 2014, báo cáo của Ban hội thẩm được ban hành tới các thành viên. Ban hội thẩm cho rằng các biện pháp của Hoa Kỳ là không phù hợp với GATT 1994 và Hiệp định Chống bán phá giá, và đề nghị Hoa Kỳ có các biện pháp liên quan phù hợp hơn với các nghĩa vụ của nước này theo các Hiệp định.

Tóm tắt các kết quả chính

Tranh chấp liên quan đến các biện pháp chống bán phá giá Hoa Kỳ áp lên một số sản phẩm tôm nhất định nhập khẩu từ Việt Nam (sau đây gọi là tiến trình tố tụng tôm và lệnh áp thuế chống bán phá giá), cũng như một số luật hoặc quy ước của Hoa Kỳ liên quan đến việc áp đặt các biện phápchống bán phá giá và việc thực hiện các khuyến nghị và phán quyết bất lợi của DSB trong các trường hợp phòng vệ thương mại.

Việt Nam đã lập luận rằng:

(i)    Việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USDOC) đã sử dụng phương pháp "quy về không" trong Rà soát hành chính lần thứ tư, thứ năm và thứ sáu đối với các đơn đặt hàng tôm là không phù hợp với Điều 9.3 của Hiệp định chống bán phá giá và Điều VI: 2 của GATT 1994;

(ii)    Các biện pháp của USDOC sử dụng trong các vụ kiện chống bán phá giá liên quan đến hàng nhập khẩu từ các nước NMEs, trong đó việc áp một tỷ lệ biên độ phá giá chung (NME-wide entity) cho tất cả các nhà sản xuất và nhà xuất khẩu không thể hoàn toàn chứng minh sự độc lập trước kiểm soát của chính phủ, được sử dụng trong Rà soát hành chính lần thứ tư, thứ năm và thứ sáu, là không phù hợp với Điều 6.10, 9.2, 9.4 và 6.8 của Hiệp định chống bán phá giá;

(iii)    Mục 129 (c) (1) của URAA, theo quan điểm của Việt Nam, đãgiúp chính quyền Mỹ trì hoãn việc thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB đối với các mục cần ưu tiên, và rằng vẫn tồn tại những vấn đề liên quan đến việc thanh quyết toán, đó là ngày "bút toán không được định trước", một cách mà không nhất quán với Điều 1, 9.2, 9.3, 11.1 và 18.1 của Hiệp định chống bán phá giá.

(iv)    Việc USDOC dựa trên biên độ bán phá giá được tính bằng phương pháp "quy về không", và việc USDOC không thể đưa ra lập luận vững chắc cũng như không tiến hành đánh giá một cách khách quan trong lần rà soát cuối kỳ đầu tiên đối với đơn đặt hàng tôm mà phía Việt Nam lập luận là không phù hợp với Điều 11.3 và 17.6 của Hiệp định chống bán phá giá; và

(v)    Việc USDOC không thực hiện thu hồi lệnh áp thuế chống bán phá giá đối với một số công ty mà Việt Nam cho rằng đã chứng minh được không có hành vi bán phá giá trong đợt rà soát hành chính thứ ba, thứ tư và thứ năm, do vậy Hoa Kỳ đã vi phạm Điều 11.1 và 11.2 của Hiệp định chống bán phá giá.

Hoa Kỳ yêu cầu Ban hội thẩm bác bỏ các lập luận của Việt Nam bằng cách ra phán quyết sơ bộ trong đó tuyên bố rằng một số lập luận của Việt Nam trong việc yêu cầu thành lập một Ban hội thẩm là nằm ngoài phạm vi liên quan của Ban hội thẩm.

Phán quyết sơ bộ giải quyết các phản đối về thẩm quyền Ban hội thẩm của Hoa Kỳ

Ngày 26 tháng 9 năm 2013, Ban hội thẩm đã đưa ra một phán quyết sơ bộ trong đó bác bỏ lập luận của Mỹ rằng lần rà soát hành chính thứ sáu không nằm trong phạm vi liên quan của Ban hội thẩm. Ban hội thẩm từ chối đưa ra bất kỳ quyết định nào đối với sự phản đối của Hoa Kỳ trước những ám chỉ của Việt Nam rằng nước này sẽ không theo đuổi những cáo buộc tương ứng.

Các cáo buộc đối với phương pháp quy về không trong rà soát hành chính

Đối với những cáo buộc của Việt Nam liên quan đến phương pháp quy về không trong rà soát hành chính (vào tháng 4 năm 2012, USDOC đã sửa đổi phương pháp tính toán của mình trong rà soát hành chính), Ban hội thẩm cho rằng Việt Nam đã thất bại trong việc chứng minh có sự tồn tại của một biện pháp tương tự như một quy tắc hay tiêu chí chung và có sự áp dụng theo định hướng. Do đó, Ban Hội thẩm bác bỏ các cáo buộc của Việt Nam rằng có sự vi phạm Điều 9.3 của Hiệp định Chống bán phá giá và Điều VI: 2 của GATT 1994.

Đối với các lập luận về "cách áp dụng" của Việt Nam, Ban Hội thẩm cho rằng việc USDOC sử dụng phương pháp quy về không để tính toán biên độ phá giá của các nhà sản xuất và xuất khẩu riêng lẻ của Việt Nam trong ba lần Rà soát hành chính là không tuân thủ Điều 9.3 của Hiệp định chống bán phá giá và Điều VI:2 của GATT 1994.

Các cáo buộc đối với việc áp tỷ lệ biên độ phá giá chung của USDOC

Đối với việc gán tỷ lệ biên độ phá giá chung của USDOC, Ban Hội thẩm kết luận rằng Việt Nam thành công khi chứng minh được sự tồn tại của một tỷ lệ biên độ phá giá chung như một quy ước hay tiêu chuẩn chung và có sự áp dụng theo định hướng là không hợp lý, và như vậy Việt Nam đã chứng minh được rằng, trong các vụ kiện chống bán phá giá liên quan đến các nước NME, USDOC đã áp dụng một giả định có thể bị bác bỏ - trong đó cho rằng tất cả các công ty của một nước NME đã cấu thành nên một thực thể chung và duy nhất, và đã áp dụng một tỷ lệ biên độ phá giá duy nhất cho toàn bộ các công ty ở một nước NME. Ban hội thẩm cho rằng biện pháp này khi áp dụng trong rà soát hành chính lần thứ tư, thứ năm và thứ sáu là không phù hợp với các Điều 6.10 và 9.2 của Hiệp định Chống bán phá giá.

Ban Hội thẩm cho rằng Việt Nam đã không chứng minh được USDOC đã sử dụng một phương pháp tương tự như một quy tắc hay một tiêu chuẩn chung và có sự áp dụng theo định hướng liên quan đến cách tính tỷ lệ biên độ phá giá chung, đặc biệt đối với việc sử dụng các lập luận sẵn có. Do đó, Ban hội thẩm đã bác bỏ lập luận của Việt Nam khi cáo buộc rằng biện pháp này là không phù hợp với các Điều 6.8, 9.4 và Phụ lục II của Hiệp định Chống bán phá giá. Tuy nhiên Ban Hội thẩm cho rằng tỷ lệ biên độ chống bán phá giá chung áp dụng cho Việt Nam và các công ty Việt Nam trong những đợt rà soát hành chính là không phù hợp với Điều 9.4. Ban hội thẩm cũng bác bỏ lập luận của Việt Nam rằng tỷ lệ trên vi phạm Điều 6.8 và Phụ lục II.

Khiếu nại liên quan đến mục 129 (c) với (1) của URAA

Ban hội thẩm kết luận rằng Việt Nam đã thất bại trong việc chứng minh các lập luận của mình là căn cứ theo sự thực, trong đó cho rằng mục 129 (c) (1) của URAA đã giúp chính quyền Mỹ trì hoãn việc thực hiện các khuyến nghị của DSB đối với bút toán không được định trước. Trong trường hợp trên, Ban hội thẩm bác bỏ cáo buộc của Việt Nam đối với quy định này của luật pháp Hoa Kỳ.
Các cáo buộc đối với quyết định của USDOC trong Rà soát cuối kỳ.

Khi đánh giá các cáo buộc của Việt Nam đối với quyết định của USDOC trong vấn đề rà soát cuối kỳ, Ban hội thẩm đã đồng ý với kết luận của các Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm trong các vụ tranh chấp trước đó rằng cơ quan điều tra nên chọn dựa trên các biên độ phá giá khi đưa ra quyết định một trường hợp có khả năng là bán phá giá, và việc tính toán những biên độ phá giá này phải phù hợp với các nguyên tắc của các hiệp định đã ký kết hoặc không được vi phạm Điều 11.3. Ban hội thẩm cho rằng khi đưa ra quyết định một trường hợp có khả năng là bán phá giá,USDOC đã dựa trên một số biên độ phá giá được xác định là trái với quy định của Hiệp định Chống bán phá giá và GATT 1994, đặc biệt là biên độ phá giá cá nhân được tính bằng phương pháp quy về không và tỷ lệ biên độ chống bán phá giá chung cho toàn Việt Nam. Ban hội thẩm kết luận rằng việc DOC dựa trên những biên độ phá giá không phù hợp với các quy định của WTO để đưa ra quyết định một trường hợp là bán phá giá, là trái với Điều 11.3.

Yêu cầu hủy bỏ thuế chống bán phá giá đối với một số công ty cụ thể

Khi xem xét yêu cầu hủy bỏ thuế chống bán phá giá đối với một số công ty cụ thể từ phía Việt Nam, Ban hội thẩm lưu ý rằng Điều 11.2 buộc các cơ quan chức năng phải có nghĩa vụ tiến hành rà soát lại sự cần thiết đối với việc tiếp tục áp dụng thuế chống bán phá giá khi: (i) nhận được yêu cầu từ một thành viên quan tâm; (ii) sau khi thời gian hợp lý đã trôi qua; (iii) yêu cầu cơ quan điều tra xem xét một trong ba vấn đề được quy định tại dòng 2 Điều 11.2; và (iv) yêu cầu kèm với thông tin xác thực chứng minh cần phải có sự rà soát lại. Ban hội thẩm cho rằng các yêu cầu của các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam trong đợt rà soát hành chính lần thứ tư và thứ năm đã thoả mãn được các điều kiện trên, nhưng USDOC lại quyết định không thu hồi phán quyết và cũng không thực hiện bất kỳ việc xem xét cần thiết nào đối với việc tiếp tục áp dụng thuế chống bán phá giá để bù đắp các thiệt hại do bán phá giá gây ra, và do đó các nhà sản xuất và xuất khẩu có đơn yêu cầu thu hồi phán quyết áp thuế chống bán phá giá đã không được kiểm tra cá nhân trong đợt rà soát hành chính. Trên cơ sở đó, Ban hội thẩm đã giữ nguyên tuyên bố của Việt Nam khi cho rằng cách DOC giải quyết các yêu cầu thu hồi thuế chống bán phá giá của các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam là trái Điều 11.2.

Ban hội thẩm cũng xem xét sâu hơn đối với vấn đề nếu một cơ quan chọn dựa vào các biên độ phá giá được xác định trong tương lai theo Điều 11.2, thì cách xác định biên độ phá giá đó phải nhất quán với các nguyên tắc của các hiệp định. Cho rằng, trong quá trình tố tụng, USDOC đã dựa vào biên độ phá giá được tính bằng phương pháp quy về không khi xem xét các yêu cầu thu hồi lệnh áp thuế chống bán phá giá, Ban Hội thẩm giữ nguyên tuyên bố của Việt Nam đối với cách giảo quyết của USDOC đối với những yêu cầu của Việt Nam.
Quảng cáo sản phẩm