Tính chất và chuẩn thẩm tra thực địa (điều tra thực địa) của DOC?
24/12/2022 12:56
Pháp luật Hoa Kỳ về chống bán phá giá có 02 nguyên tắc cơ bản liên quan đến “tính chính xác”, bao gồm:
- DOC phải kiểm tra tính chính xác của tất cả các thông tin được đệ trình trong quá trình điều tra; và
- Nếu những thông tin cần thiết nhưng không được đệ trình hoặc không thể xác minh, DOC được phép sử dụng “thông tin sẵn có” (facts available) để thay thế cho thông tin bị thiếu hoặc không chính xác. “Thông tin sẵn có”, được lấy từ các lập luận của chính nguyên đơn hoặc là thông tin của bị đơn cung cấp nhưng đã bị DOC can thiệp thay đổi, sẽ làm tăng biên độ phá giá lên đáng kể. Vì vậy, bản chất của những thông tin sẵn có được sử dụng để thay thế này là “bất lợi” và “mang tính trừng phạt” đối với doanh nghiệp bị đơn.
Điều tra thực địa/xác minh (verification hoặc on-spot investigation) là hoạt động cơ bản để đảm bảo nguyên tắc về tính chính xác này. Cụ thể, điều tra thực địa là việc xác minh tính chính xác, đầy đủ và phù hợp của các thông tin mà các bên cung cấp cho DOC qua các bảng câu hỏi và các phương thức khác thông qua việc kiểm tra thực tế tại cơ sở làm việc, xưởng sản xuất của bên liên quan.
Về bản chất, thẩm tra thực địa giống như việc kiểm toán lại để chấp thuận hay không chấp thuận những thông tin mà doanh nghiệp bị đơn cung cấp. Vì vậy, kết quả của việc thẩm tra thực địa sẽ là quyết định thông tin nào do bị đơn cung cấp sẽ được sử dụng, thông tin nào bị từ chối (và sẽ bị thay thế bởi thông tin sẵn có bất lợi).
Tính chất của thẩm tra thực địa là “điều tra ngẫu nhiên” (spot check), tức là DOC sẽ chỉ tiến hành điều tra một số trong các giao dịch của bị đơn (bởi việc điều tra tất cả các giao dịch của tất cả các bị đơn bắt buộc là một khối lượng công việc khổng lồ và không thể thực hiện được). Kết quả thẩm tra thực địa các giao dịch được chọn có ảnh hưởng quyết định đến đánh giá của DOC về tính chính xác của các thông tin về tất cả các giao dịch còn lại của doanh nghiệp bị đơn liên quan. Vì vậy càng nhiều lỗi bị phát hiện trong quá trình thẩm tra thực địa thì nguy cơ DOC bác một phần hoặc toàn bộ các thông tin mà doanh nghiệp cung cấp càng lớn.
Thực tế
Hoạt động thẩm tra thực địa là hoạt động bắt buộc mà DOC sẽ tiến hành trong quá trình điều tra (giai đoạn điều tra cuối cùng) đối với tất cả các bị đơn bắt buộc trong vụ điều tra.
Pháp luật Hoa Kỳ không có quy định cụ thể về các chi tiết cũng như tiêu chuẩn cho quá trình thẩm tra thực địa. Qua thời gian, DOC đã hình thành một một thông lệ tương đối ổn định cho hoạt động này, đặc biệt là các tiêu chuẩn và các phương pháp xác minh thông tin.
Mặc dù vậy, việc điều tra (mà chủ yếu là chuẩn thẩm tra thực địa) vẫn phụ thuộc một phần không nhỏ vào cá nhân cán bộ điều tra. Người cán bộ điều tra này là người trực tiếp quyết định một thông tin nào đó do doanh nghiệp cung cấp là phù hợp và chính xác hay không. Mỗi cán bộ này quan niệm, kiến thức và kinh nghiệm riêng, vì vậy “chuẩn chính xác” mà họ áp dụng cũng không giống nhau. Đây là con dao hai lưỡi đối với doanh nghiệp bị đơn, bởi:
- Nếu cán bộ điều tra là người dễ tính, ít kinh nghiệm hoặc không biết nhiều về hệ thống kế toán, họ sẽ tiến hành điều tra “bề mặt” là chủ yếu và do đó những điểm “có vấn đề” trong sổ sách của doanh nghiệp có thể “thoát”. Cán bộ điều tra thiếu kinh nghiệm cũng có thể không hướng vào những vấn đề trọng tâm mà chỉ xem xét các nội dung ngoài rìa và như vậy có thể những thiếu sót lớn của doanh nghiệp, nếu có, sẽ không bị lộ tẩy. Vấn đề là sau đó cán bộ điều tra phải lập một báo cáo rất chi tiết để cán bộ cấp trên của DOC xem xét. Và nguy cơ là các báo cáo của cán bộ thiếu kinh nghiệm sẽ dễ bị xem xét, cân nhắc lại, thậm chí là hủy. Ngoài ra, kết quả thẩm tra thực địa cũng sẽ bị xem xét rất chi li bởi luật sư của phía nguyên đơn. Vì vậy những báo cáo của cán bộ điều tra thiếu kinh nghiệm hoặc xem xét không cẩn thận sẽ có nguy cơ bị khiếu nại/khiếu kiện cao hơn.
- Nếu cán bộ thẩm tra thực địa là người có kinh nghiệm, có kiến thức sâu về hệ thống kế toán, tất nhiên doanh nghiệp sẽ vất vả hơn rất nhiều khi làm việc với người này. Nhiều thứ sẽ phải xuất trình, nhiều người sẽ bị triệu tập để phỏng vấn, nhiều vấn đề sẽ bị xem xét. Tuy nhiên báo cáo của những cán bộ này lại tương đối chắc chắn, thường là được chấp nhận và như vậy doanh nghiệp bị đơn ít nhất cũng biết chắc chắn về “số phận” của mình sau thẩm tra thực địa.
Cán bộ điều tra DOC có xu hướng đòi hỏi tất cả những chứng cứ về tài chính, kế toán mà họ cho rằng ít có khả năng bị “làm lại” hoặc “điều chỉnh”. Ví dụ, để xác minh định mức lao động, họ có thể đòi doanh nghiệp xuất trình bảng chấm công của một công nhân nào đó. Để xác minh một khoản chi, họ có thể đòi hóa đơn (kể cả những hóa đơn đã bị hủy). Để xác minh một khối lượng sản phẩm ghi trong sổ kế toán, họ có thể yêu cầu doanh nghiệp nộp biên bản sản xuất hàng ngày…
Lưu ý đối với doanh nghiệp
Thẩm tra thực địa có vai trò và ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với kết quả điều tra. Thông tin nào mà doanh nghiệp cung cấp sẽ được sử dụng để tính toán, thông tin nào sẽ bị bác bỏ và thay thế bởi những “thông tin sẵn có bất lợi” đều phụ thuộc vào kết quả thẩm tra thực địa này.
Vì vậy doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý và có sự chuẩn bị đầy đủ cho quá trình thẩm tra thực địa này. Đặc biệt, như đã biết, kết quả điều tra phụ thuộc rất lớn vào quan điểm và cách nhìn nhận của cán bộ DOC trực tiếp thẩm tra thực địa. Do đó, một nguyên tắc bất di bất dịch trong thẩm tra thực địa là doanh nghiệp bị đơn cần đáp ứng tất cả các yêu cầu của cán bộ điều tra DOC (trừ những vấn đề doanh nghiệp không thể thực hiện nổi, và trong những trường hợp như vậy cũng phải giải thích cụ thể và đầy đủ về lý do tại sao không thể thực hiện được yêu cầu). Hợp tác đầy đủ và trung thực với cán bộ điều tra DOC là công cụ hiệu quả để doanh nghiệp bị đơn có thể đạt được kết quả khả quan trong thẩm tra thực địa.
Doanh nghiệp nên đối xử với cán bộ thẩm tra như thế nào?
Các luật sư có kinh nghiệm trong lĩnh vực điều tra chống bán phá giá đều thống nhất quan điểm rằng đối với cán bộ thẩm tra, doanh nghiệp cần biết rằng:
- Không thể “mua” cán bộ điều tra DOC bằng tiền, cũng không thể “mua” bằng bất kỳ cái gì khác ngoài sự hợp tác tối đa và sự trung thực của doanh nghiệp;
|
Nguồn: Trung tâm WTO và Hội nhập - VCCI
Các tin khác
- Thuế chống bán phá giá được qui định tại những văn bản nào trong pháp luật Hoa Kỳ? (24/12/2022)
- Biện pháp phòng vệ thương mại ở Hoa Kỳ là gì? (24/12/2022)
- Tính chất của các biện pháp phòng vệ thương mại Hoa Kỳ? (24/12/2022)
- Pháp luật và thực tiễn phòng vệ thương mại Hoa Kỳ bảo vệ ai? (24/12/2022)
- Ai có quyền yêu cầu điều tra chống bán phá giá? (24/12/2022)