Tình hình điều tra phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ với Việt Nam (cập nhật đến tháng 5/2024)

19/08/2024 09:30 - 526 lượt xem

Việt Nam nằm trong nhóm có thặng dư thương mại đáng kể với Hoa Kỳ (đứng thứ 3 chỉ sau Trung Quốc và Mexico). Theo số liệu của Ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ (USITC), tổng kim ngạch thương mại hai chiều của Việt Nam và Hoa Kỳ đạt 124,2 tỷ USD, mặc dù giảm 10% so với năm 2022 (năm xuất khẩu tăng đột biến hậu COVID-19) nhưng vẫn tăng 10% so với năm 2021. Chỉ tính từ đầu năm đến giữa tháng 4/2024, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 19 tỷ USD, thặng dư thương mại đạt 17 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2023. Những số liệu này cho thấy hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng lớn, sức cạnh tranh tốt so với các nước trên thế giới khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sự cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam cũng gây áp lực cho các ngành sản xuất nội địa của Hoa Kỳ, buộc chính quyền Hoa Kỳ phải tìm kiếm các giải pháp để hạn chế nhập khẩu, ví dụ như điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM), Mục 301 và Mục 232 của Đạo luật thương mại, Đạo luật chống lao động cưỡng bức…

 

Một trong các công cụ được chính quyền Hoa Kỳ thường xuyên sử dụng thời gian qua là các biện pháp PVTM. Về nguyên tắc, các biện pháp PVTM (bao gồm chống bán phá giá (CBPG), chống trợ cấp (CTC) và tự vệ) là các biện pháp được Tổ chức Thương mại thế giới(WTO cho phép các nước thành viên áp dụng để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh không công bằng hoặc sự gia tăng lớn, không lường trước được của hàng nhập khẩu. Biện pháp PVTM có thể được áp dụng dưới hình thức thuế nhập khẩu bổ sung sau khi cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu xác định thông qua một cuộc điều tra rằng các điều kiện áp dụng biện pháp theo quy định của WTO đã được thỏa mãn. Để đảm bảo hiệu quả của các biện pháp PVTM đang áp dụng, các nước cũng tiến hành điều tra và áp dụng các biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM.

 

Theo thống kê của WTO, Hoa Kỳ hiện là nước đứng đầu trên thế giới về việc điều tra và áp dụng các biện pháp PVTM để bảo hộ ngành sản xuất nội địa và cũng là nước điều tra, áp dụng nhiều biện pháp PVTM nhất với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đến nay, Hoa Kỳ đã tiến hành điều tra 64 vụ trên tổng số 251 vụ việc nước ngoài điều tra với Việt Nam (chiếm 25%), gồm: 28 vụ việc CBPG, 11 vụ việc CTC, 22 vụ việc chống lẩn tránh thuế PVTM và 03 vụ việc tự vệ. Bộ Công Thương thường xuyên cập nhật trên Cổng thông tin điện tử Danh sách cảnh báo các mặt hàng có nguy cơ bị điều tra, áp dụng biện pháp PVTM và lẩn tránh biện pháp PVTM để các Bộ, ngành, cơ quan liên quan phối hợp theo dõi và các Hiệp hội, doanh nghiệp xây dựng phương án, kế hoạch kinh doanh, xuất khẩu cho phù hợp.

 

Bảng – Số vụ việc PVTM do Hoa Kỳ điều tra do với tổng số vụ PVTM mà hàng hóa Việt Nam phải đối mặt trên tất cả các thị trường

 

Thời gian

Đến hết năm 2001[1]

2002-2016

2017[2]-T5/2024

Số vụ việc

0/7 (0%)

19/105 (18%)

45/139 (32%)

 

Nguồn: Bộ Công Thương, 2024

 

Thực tiễn các vụ việc điều tra PVTM của Hoa Kỳ đối với Việt Nam có một số đặc điểm, xu hướng đáng lưu ý như sau: 

 

-    Sản phẩm bị điều tra ngày càng đa dạng: Từ các sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu lớn như gỗ, pin năng lượng mặt trời, thép, nhôm, thủy sản (tôm, cá tra); lốp xe… đến những sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu trung bình và nhỏ như túi giấy, mật ong, đĩa giấy…

 

-    Tăng nhanh về số lượng vụ việc điều tra chống lẩn tránh: Trước khi sửa đổi quy định về điều tra chống lẩn tránh vào tháng 9/2021, số lượng các vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế PVTM mà Hoa Kỳ khởi xướng với Việt Nam mới là 09 vụ việc. Từ tháng 9/2021 đến nơi, Hoa Kỳ khởi xướng 13/37 vụ việc điều tra lẩn tránh với Việt Nam (hơn 1/3 tổng số vụ việc điều tra lẩn tránh thuế của nước ngoài với Việt Nam từ trước tới nay. Các vụ việc này chủ yếu tập trung vào sản phẩm xuất khẩu sử dụng nguyên liệu có xuất xứ Trung Quốc.

 

-    Thường xuyên điều tra “kép”, điều tra nhiều biện pháp với cùng một sản phẩm:  Ví dụ sản phẩm lốp xe bị đồng thời áp thuế CBPG và CTC; pin năng lượng mặt trời bị áp thuế tự vệ, thuế chống lẩn tránh thuế CBPG và CTC; nhôm bị áp thuế chống lẩn tránh thuế CBPG và CTC và đang bị điều tra CBPG; tôm nước ấm đông lạnh bị áp thuế CBPG và đang bị điều tra CTC.

 

-    Thường xuyên bị điều tra “chùm”: Trong bối cảnh cơ cấu sản xuất của Việt Nam khá tương đồng với Trung Quốc và nước này cũng đứng thứ 4 về đầu tư trực tiếp vào Việt Nam (năm 2023) thì việc bị “vạ lây” là điều không thể tránh khỏi. Việc tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực thông qua việc tham gia vào nhiều Hiệp định Thương mại tự do (FTA) khiến Việt Nam trở thành quốc gia thường xuyên bị Hoa Kỳ điều tra chung với một số nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ… - cũng là các quốc gia có kim ngạch xuất khẩu lớn, thường xuyên bị điều tra PVTM.

 

   Phạm vi điều tra ngày càng mở rộng: Bao gồm cả các nội dung mới như điều tra xem xét phạm vi sản phẩm, điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM, điều tra định giá thấp tiền tệ trong khuôn khổ điều tra CTC… Ví dụ, trong vụ việc điều tra CTC với lốp xe của Việt Nam khởi xướng năm 2020, lần đầu tiên Hoa Kỳ cho rằng việc Chính phủ định giá thấp đồng tiền là một loại trợ cấp và đã đánh thuế gần 2% vì lý do này, dẫn đến tổng thuế CTC lên đến gần 8%.

 

-    Xu hướng điều tra khắt khe hơn: Yêu cầu Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam bổ sung nhiều thông tin, chặt chẽ về gia hạn thời hạn nộp bản trả lời câu hỏi, thay đổi tiền lệ trong việc xác định xuất xứ…

 

-    Thời gian điều tra kéo dài, đặc biệt với các vụ việc điều tra chống lẩn tránh: Ví dụ vụ việc Hoa Kỳ điều tra chống lẩn tránh đối với gỗ dán cứng từ Việt Nam kéo dài hơn 3 năm do được gia hạn nhiều lần. Việc gia hạn này sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp của Việt Nam do chưa biết được doanh nghiệp nào sẽ được tham gia cơ chế tự xác nhận để loại từ khỏi biện pháp cho các lô hàng chưa thanh khoản và các lô hàng tương lai.

 

-    Mức thuế PVTM bị đẩy lên cao do vấn đề kinh tế thị trường (KTTT):

 

Do Hoa Kỳ chưa công nhận Việt Nam là nền KTTT nên sử dụng chi phí của một nước thứ ba (nước thay thế) để tính giá trị thông thường trong các vụ việc CBPG, khiến mức thuế CBPG tăng cao, không phản ánh đúng thực trạng sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc coi Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường cho phép Hoa Kỳ áp dụng thuế suất toàn quốc – là mức thuế dành cho các doanh nghiệp không hợp tác hoặc không chứng minh được họ không chịu sự kiểm soát của Chính phủ. Thuế suất toàn quốc thường được tính toán dựa trên dữ liệu sẵn có nên bị đẩy lên rất cao, tương đương lệnh cấm và được duy trì trong tất cả các đợt rà soát, gây cản trở cho việc xem xét dỡ bỏ lệnh áp thuế của Hoa Kỳ. Việc Hoa Kỳ thường xuyên cập nhật danh sách nước thay thế càng làm cho kết quả vụ việc trở nên khó dự đoán hơn. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng sử dụng ngưỡng chuẩn (benchmark) của nước thay thế khi tính toán biên độ trợ cấp, khiến biên độ trợ cấp tăng cao[3], hay khi xem xét các yếu tố định giá lẩn tránh biện pháp PVTM, khiến khả năng doanh nghiệp Việt Nam bị kết luận có lẩn tránh cao hơn. 

 

Nhận thức việc được công nhận KTTT có ý nghĩa rất lớn cho các ngành sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam, được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, ngày 8/9/2023, Bộ Công Thương đã nộp hồ sơ đề nghị Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USDOC) xem xét công nhận Việt Nam là nền KTTT theo quy định của Hoa Kỳ nhân dịp nâng cấp quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện. Sau khi USDOC chính thức khởi xướng việc xem xét vào ngày 30/10/2023, Bộ Công Thương tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hoàn thiện bản lập luận, bản lập luận phản biện của Chính Phủ, đồng thời vận động các tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp trong và ngoài nước có tiếng nói ủng hộ Việt Nam, tham gia các thủ tục theo quy định của Hoa Kỳ. Nếu không gia hạn. Sau hơn một năm xem xét, ngày 2/8/2024, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USDOC) đã đưa ra quyết định về việc tiếp tục phân loại Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường. Mặc dù ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua, Hoa Kỳ vẫn từ chối đề nghị thay đổi tình trạng kinh tế phi thị trường của Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nếu bị điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp ở Hoa Kỳ sẽ tiếp tục phải chịu các kết quả bất lợi, không công bằng xuất phát từ việc USDOC sử dụng các giá trị thay thế từ một nước thứ ba thay vì giá các chi phí thực tế của doanh nghiệp trong tính toán biên độ phá giá/trợ cấp. 

 

[1] Thời điểm Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) có hiệu lực

[2] Năm Tổng thống Donald Trump nhậm chức

[3] Ví dụ Hoa Kỳ có thể dùng lãi suất vay hay tiền thuê đất của quốc gia thay thế làm ngưỡng chuẩn (thường ở mức cao) để so sánh với lãi suất vay hay tiền thuê đất của doanh nghiệp (thường ở mức thấp hơn) để tính lợi ích mà doanh nghiệp nhận được, khiến biên độ trợ cấp bị đẩy lên cao.

 

Nguồn: Bộ Công Thương

Quảng cáo sản phẩm